Người Mỹ không dành sự ưu ái của mình cho các nhãn hàng chỉ vì đó là "con cưng" do nội địa sản xuất, họ yêu quý và trung thành với tiện ích của chính bản thân mình. Khi tiện ích của bản thân không được đáp ứng, các thương hiệu cũng lần lượt bị cho vào dĩ vãng.
Thói quen trung thành với một nhãn hiệu nào đó được bồi đắp nên từ ý thích chủ quan cũng như sự cân nhắc thực dụng. Có được sự đồng thuận của hai yếu tố đó từ người tiêu dùng, một thương hiệu mới vững vàng tồn tại lâu dài. Gần như bắt buộc, nó phải luôn tự làm mới mình, phải "tiến hóa" để luôn theo sát những đối tượng quan trọng mà nó hướng tới. Làm thế nào để dung hòa thật hoàn hảo giữa thiết kế mẫu mã, giá thành, tính năng mà vẫn hợp thời - thực sự vừa là một môn nghệ thuật, vừa là một ngành khoa học cần nghiên cứu tỉ mỉ, công phu.
Từ danh sách các thương hiệu nổi tiếng của Thời báo Wall Street, chúng tôi chọn ra sau đây những nhãn hàng đã bị "thất sủng" mà người Mỹ từng một thời yêu chuộng.
1. Chrysler
Thành lập năm 1925, Chrysler từng là một trong những hãng sản xuất ô tô thành công bậc nhất. Từ bờ vực phá sản hồi năm 1979, tập đoàn trở lại tái cấu trúc vào năm 2008. Thành tích vực dậy công ty thuộc về Lee Iacocca, và câu chuyện kỳ diệu hồi sinh từ đống đổ nát vẫn còn được nhắc lại nhiều trong hàng thập kỷ trở lại đây.
Chrysler đã mất ít nhiều tính nhất quán thương hiệu khi hợp nhất với Daimler (Đức) năm 1998 và nằm hoàn toàn dưới sự điều hành của Daimler. Năm đó, thị phần của Chrysler trên thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 17%, với doanh số 2.6 triệu ô tô bán ra. Thậm chí doanh số bán hàng năm nay theo dự đoán có thể còn không đạt tới được mốc 1 triệu chiếc. Số phận Chrysler hiện nay lại tiếp tục nằm trong tay một tập đoàn nước ngoài khác- Fiat.
2. Dell
Nỗ lực của Dell trong công cuộc phổ cập sử dụng máy tính cá nhân vào đời sống là không thể phủ nhận. Dell thành lập năm 1984 bởi doanh nhân trẻ Michael Dell. Ông cũng là giám đốc điều hành trẻ nhất từ trước đến nay trong danh sách Fortune 500. Năm 1998, giá trị vốn hóa thị trường của Dell đạt 80 tỷ USD. Dell đã từng làm nên một cuộc cách mạng trong nền công nghiệp máy tính cá nhân khi cho phép giao dịch mua hàng qua Internet.
Kinh doanh của Dell sụt giảm trong khoảng năm 2006 đến 2007, bởi sự chậm chạp, ít cải tiến sản phẩm và sự phát triển mạnh mẽ của mạng lưới dịch vụ bán lẻ máy tính qua mạng. Hiện nay, HP đã "vượt mặt" Dell để chiếm thị phần lớn nhất tại thị trường PC.
Những tin đồn cáo buộc Dell bán máy tính bị lỗi linh kiện dù đã được cảnh báo trước và một số cuộc điều tra liên bang tiến hành trong nội bộ hoạt động khiến danh tiếng của Dell bị tổn thương nghiêm trọng.
3. Kmart
Những cửa hàng đầu tiên của Kmart ra đời năm 1897. Đến giữa thế kỷ XX, chuỗi siêu thị Kmart thực sự bắt đầu kỷ nguyên huy hoàng của mình khi trở thành một trong những nhà phân phối hàng đầu tại Hoa Kỳ dựa trên doanh số và số chi nhánh. Tập đoàn vẫn duy trì được tốc độ phát triển trong suốt những năm 70, 80, 90 - dù sức cạnh tranh từ hàng loạt các nhãn hiệu mới ra đời ngày càng gay gắt.
Tuy vậy, Kmart đã thất bại khi tiến hành đổi mới và không thu hút được vốn đầu tư. Số liệu bán hàng của các chi nhánh đại diện cho thấy sự sụt giảm đáng kể. Kmart tuyên bố phá sản năm 2002, sau đó được mua lại và hợp nhất với Sears. Dưới sự điều hành yếu kém, với hàng loạt biến đổi cách điệu đến mức vứt bỏ cả cá tính riêng và sức ép dữ dội từ "ông lớn" Wal-Mart, "người khổng lồ" đầy quyền lực của Hoa Kỳ Kmart cuối cùng đành chấp nhận ngậm ngùi nhường lại vị trí số 1.
4. Firestone
Thành lập năm 1900, Firestone là một trong những hãng sản xuất lốp xe hàng đầu thế giới. Firestone độc quyền cung cấp lốp xe cho Ford Motor. Nhà vô địch đường đua Indianapolis 500 năm 1911 sử dụng lốp xe Firestone. Tất cả các xe đua từng chiến thắng trong các giải đấu từ năm 1920 đến năm 1966 đều chạy trên lốp xe của hãng. Firestone cũng từng cung cấp vũ khí quốc phòng cho chính phủ Mỹ trong Thế chiến II. Đến giữa thế kỷ XX, Firestone đã đứng vững vàng ở vị trí thứ 2 trong nền công nghiệp sản xuất lốp xe ô tô, chỉ sau Goodyear.
Hàng loạt những tai nạn xảy ra sau đó do sai sót trên sản phẩm đã kéo theo chuỗi kiện tụng, án phạt dai dẳng và sự trượt dốc thê thảm. Thậm chí, công ty lún sâu vào khó khăn tài chính tới mức buộc phải chuyển nhượng cho "ông lớn" Bridgestone của Nhật. Từ đó, chi nhánh tại Mỹ của Bridgestone được biết đến dưới cái tên Bridgestone Firestone. Tuy nhiên, thương hiệu Mỹ lẫy lừng một thời Firestone ngày càng ít được nhắc đến trong nhiều thập niên trở lại đây.
5. Tạp chí Time
Thành lập năm 1923 bởi hai cựu sinh viên Đại học Yale, Time nhanh chóng trở thành thời báo tin tức lớn nhất thế giới, với quy mô "phủ sóng" trên hầu khắp toàn cầu. Doanh số phát hành trong những năm cuối thập niên 90 chạm mốc 4.2 triệu bản. Giải thưởng "Nhân vật của năm" do Time bình chọn là một trong những sự kiện truyền thông được mong đợi nhất hàng năm. Time sở hữu một trong những hệ thống dây chuyền biên tập quy mô nhất thế giới.
Hiện tại tổng số phát hành của Time đã sụt giảm còn 3.25 triệu bản. Trong một thế giới đầy ắp các sự kiện nóng hổi diễn ra từng giây, đây là khó khăn chung của các tạp chí tin tức. Đối thủ trước kia của Time, US News thậm chí không còn khả năng xuất bản đều kỳ. Newsweek sang tay một chủ nhân mới chỉ với 1 USD (!) hồi năm ngoái. Thương hiệu Time đang chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ các kênh tin tức truyền hình và website - nơi có thể cập nhật tin nhanh hoàn toàn miễn phí.
6. Timex
Timex được sáng lập bởi Tập đoàn Waterbury Clock, công ty tiên phong trong kinh doanh đồng hồ đeo tay. Sản xuất ngày càng được cải tiến và có hiệu quả rất cao, trong khi giá thành nguyên liệu giảm - tạo điều kiện cho sự ra mắt của nhãn hiệu đồng hồ giá rẻ Timex năm 1950. Nửa đầu những năm 60, Timex chiếm thị phần lớn nhất trong ngành sản xuất đồng hồ đeo tay: cứ 3 cái bán ra thì 1 mang hiệu Timex.
Sự ra đời của đồng hồ số, đồng hồ thạch anh với độ bền cao và đặc biệt hữu dụng giữa thập niên 70 hầu như lập tức "hạ bệ" Timex.
7. Maxwell House Coffee
Thương hiệu café Maxwell House ra đời năm 1982 và thống lĩnh ngành café Hoa Kỳ trong suốt thế kỷ XX. Khẩu hiệu "Thơm ngon đến giọt cuối cùng" ( "Good To The Last Drop" ) từng nổi tiếng và phổ biến trên toàn thế giới.
Sự suy sụp của Maxwell bắt đầu khi gặp phải sự cạnh tranh từ những nhãn hiệu café giá thành thấp hơn như Eight O'Clock và xu hướng thay đổi sở thích của người tiêu dùng sang sản phẩm hạt café cao cấp và máy pha chế tại chỗ của Nespresso. Maxwell House cũng hứng chịu đòn tấn công mãnh liệt từ chuỗi cửa hàng Starbucks và, đáng ngạc nhiên hơn, từ cả McDonald's.
8. Reebok
Giày Reebok từng đồng hành thân thiết với đời sống của người Mỹ, giống như Nike đang làm được hiện tại. Nhà sáng lập Reebok, J W Foster xuất thân từ gia đình giàu truyền thống: ông là cháu trai của một nhà sản xuất giày nổi tiếng. Những năm 1980, Reebok đứng trong top sản xuất và tiêu thụ giày thể thao tại Hoa Kỳ, và là nhãn hiệu giày đầu tiên ra mắt dòng sản phẩm giày thể thao thiết kế dành riêng cho phụ nữ. Reebok phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng năm 1985 và trở thành công ty cổ phần hữu hạn.
Thương hiệu nổi tiếng nhờ nhiều ngôi sao vận động viên, nghệ sĩ, ca sĩ làm gương mặt đại diện cho từng dòng giày. Do vậy, tổng chi phí sản xuất nói chung và marketing nói riêng đội lên cao chóng mặt, cao hơn tất thảy các hiệu giày thể thao khác. Reebok được sát nhập vào Adidas năm 2006, gần như là đặt dấu chấm hết khi hầu như tất cả sản phẩm của Reebok đều bị đổi tên thành Adidas.
9. Merrill Lynch
Ra đời năm 1914, nhà sáng lập Charles Merrill. Khởi đầu là công ty tư vấn đầu tư, Merrill Lynch tiến hành liên doanh với rất nhiều công ty khác và trở thành tập đoàn tài chính lớn nhất thế giới ngay trước Thế chiến II. Trong thời gian diễn ra chiến tranh, Merrill Lynch cũng kiêm luôn vị trí số 1 trong ngành bảo hiểm và an ninh Mỹ. Đến cuối thế kỷ 20, Merrill Lynch có trong tay 15,000 nhà môi giới chứng khoán -con số đáng nể lớn hơn bất kỳ công ty tài chính nào khác.
Danh tiếng và sự ổn định của tập đoàn gần như sụp đổ khi Merrill Lynch dấn sâu vào cuộc khủng hoảng đầu tư vào các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn và dính líu tới vụ lùm xùm phát hành trái phiếu thế chấp CDO. Tập đoàn bị tổn thương tài chính nghiêm trọng đến mức phải nhượng lại cho Ngân hàng Bank of America hồi năm 2008 để thoát khỏi nguy cơ phá sản. Thời hoàng kim thực sự chỉ là quá khứ, ngày nay Merrill Lynch chỉ là một bộ phận nhỏ trực thuộc Bank of America.
10. MySpace
Ra mắt năm 2003, Myspace là Mạng xã hội lớn nhất thế giới khi trị giá chuyển nhượng cho Tập đoàn News năm 2005 là 580,000 USD. Trong năm đó, MySpace ký kết hợp đồng quảng cáo 900 triệu USD với Google và đạt 100 triệu người sử dụng.
Mạng xã hội lớn thứ hai Facebook gần đây đã tiến một bước dài khi phát triển nhiều tính năng, giúp giao diện và quá trình sử dụng trở nên đơn giản hơn, hiệu quả tương tác tăng cao. MySpace đã chậm chân hơn trong việc bổ sung các tính năng tương tự vào giao diện của mình, vô hình chung dâng lợi thế và vị trí số 1 cho thế lực đang mạnh thêm từng phút Facebook.
- Diệu Anh -
(Thanh Phương -
Theo Vef/ WSJ )
Share:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét