Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Thương hiệu Việt: Của vô chủ, ai nhanh tay thì lấy!

Trong vụ đánh mất thương hiệu cà phê vào tay DN Trung Quốc được phát hiện từ hơn hai năm trước, nhưng sự đủng đỉnh trong phản ứng suốt thời gian dài đến bây giờ mới bắt đầu loay hoay tìm cách đi kiện.

Thương hiệu Việt: Của vô chủ, ai nhanh tay thì lấy!

Chuyện nước mắm mang tên gọi xuất xứ Phú Quốc được bảo hộ nhưng lại thuộc sở hữu của một công ty Thái Lan, ngoài ra còn có phần của một công ty Mỹ, đã gây một vết thương còn chưa thành sẹo trong ký ức. Gần đây lại đến chuyện cà phê Buôn Ma Thuột được nhà chức trách Trung Quốc công nhận thuộc về một thương nhân ở Quảng Đông; rồi lại thêm cà phê Daklak được cho là của một nhà sản xuất người Pháp. Và nay nghe nói có thêm một công ty nước ngoài nào đó tiến hành đăng ký tại Hồng Kông để xin bảo hộ quyền khai thác cũng đối với tên gọi nước mắm Phú Quốc.

Đáng buồn không phải là việc đánh mất vài ba thương hiệu, mà là thái độ của một bộ phận những người có trách nhiệm đối với việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên thương hiệu của Quốc Gia . Hiện nay, phần lớn thương hiệu xuất xứ từ Việt Nam đều ở trong tình trạng dễ bị chiếm đoạt, đặc biệt là các chỉ dẫn địa lý. Có người thậm chí còn nói ví von rằng nhiều thương hiệu Việt Nam chẳng khác của vô chủ đang "rơi vãi" ở nơi công cộng, ai nhanh tay thì nhặt được.

Khác với các tài sản hữu hình, thương hiệu, cũng như các tài sản trí tuệ nói chung, là loại của cải tồn tại không phải bằng hình hài vật chất, mà chỉ ở trong nhận thức của con người. Việc nắm giữ, khai thác và bảo vệ thương hiệu hoàn toàn dựa vào công cụ luật pháp, chứ không dựa vào sức vóc của cơ bắp.

Thực ra, xây dựng lá chắn pháp lý để bảo vệ thương hiệu chống sự xâm hại, chiếm đoạt không quá khó, cũng không quá tốn kém. Chỉ cần lập một hồ sơ gồm các chứng cứ thuyết phục về sự hiện hữu của một thương hiệu không bị ai tranh chấp, cũng chưa được đăng ký lần đầu và trả các khoản lệ phí theo quy định, người ta sẽ có một chứng nhận đăng ký độc quyền. Người có độc quyền đối với một thương hiệu có tư cách chủ sở hữu và được tự do khai thác giá trị kinh tế của nó theo ý mình, đồng thời có được sự bảo đảm của nhà chức trách công về việc không cho phép bất kỳ ai khác sử dụng thương hiệu đã được bảo hộ mà không được sự chấp thuận của mình.

Trên nguyên tắc, muốn bảo vệ thương hiệu tại một quốc gia, thì phải đăng ký bảo hộ với nhà chức trách của quốc gia đó. Trong điều kiện sản phẩm được xuất khẩu, xúc tiến việc đăng ký tại các nước nhập khẩu hàng hoá là việc làm cần thiết.

Qua các vụ thương hiệu truyền thống nước mắm, cà phê bị thương nhân nước ngoài lấy mất, dễ có cảm tưởng rằng những người có liên quan trong nước còn chưa hiểu rõ vai trò của các công cụ giao tiếp pháp lý trong đời sống kinh tế đương đại, đặc biệt là trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ. Nhiều người vẫn giữ định kiến cho rằng các công cụ ấy là những đồ vật không rõ lợi ích trong khi việc mua sắm lại tốn kém.

Thế rồi khi đột ngột phát hiện rằng theo pháp luật ở một nơi chốn nào đó, mình đã bị đặt ở vị trí người ngoài cuộc trong mối quan hệ sở hữu đối với những thứ vốn hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm nay, được quen coi là của mình, thì người ta mới chưng hửng.

Đáng nói nữa, trong vụ cà phê, là việc đánh mất thương hiệu vào tay doanh nghiệp Trung Quốc đã được phát hiện từ hơn hai năm trước, nhưng các vị trí có thẩm quyền đã tỏ ra quá nặng nề, đủng đỉnh trong phản ứng. Bây giờ mọi người mới bắt đầu loay hoay tìm cách đi kiện. Theo một tính toán sơ bộ, vụ kiện có thể sẽ làm hao tốn khoảng 800 triệu đồng. Tuy nhiên, bất kỳ dự án nào cũng sẽ làm phát sinh chi phí ngoài dự kiến; vả lại, chắc chắn việc kiện đòi thương hiệu sẽ gây tốn kém nhiều lần so với việc đăng ký bảo hộ thương hiệu, trong khi kết quả kiện cáo có được như ý muốn hay không thì chưa biết, dù công ty luật được uỷ quyền thực hiện vụ kiện dự báo rất lạc quan về khả năng thắng kiện, dựa theo kết quả tham khảo luật lệ của nước sở tại.

Trong mọi trường hợp, cần từ đó rút ra bài học: phải thay đổi sâu rộng nhận thức phổ biến trong bộ máy quản lý và trong xã hội về tầm quan trọng và sự cần thiết của việc đăng ký bảo hộ các thuơng hiệu Việt. Nếu không, đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ phải chứng kiến nhan nhãn trên thị trường nội địa các sản phẩm mang tên Việt, mang địa danh Việt, nhưng lại được nhập khẩu đường hoàng từ nước ngoài; còn sản phẩm Việt đích thực thì lại bị cấm cửa ở xứ người với lý do vi phạm quyền sở hữu thương hiệu Việt của người nước ngoài.

- PGS.TS. Nguyễn Ngọc Điện -

(Thanh Phương -

Theo TuanVietNam)

Share:

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

Mạng xã hội: Lợi nhuận còn xa

Mạng xã hội bắt đầu được nhìn nhận như một công cụ tiếp thị hiệu quả, thậm chí là không thể thiếu trong nhiều chiến dịch tiếp thị. Nhiều mạng xã hội đã được lập nên để phục vụ nhu cầu này, nhưng không ít trong số đó đã chết yểu.

mangxahoi_copy

Cuộc sống của Lê Đình Hùng, chủ thương hiệu trang sức cao cấp Cửu Long Jewellery, thực sự thay đổi bởi Facebook . Mỗi ngày, xen giữa những sinh hoạt hằng ngày của mình, ông Hùng đều dành một khoảng thời gian cố định cho Facebook: 4 giờ sáng dậy tập thể dục 30 phút, dành 30 phút tiếp theo cho Facebook, ăn sáng và thêm 1 giờ nữa cho Facebook.

Cuộc cách mạng...

Không ít doanh nhân tuổi trung niên như ông Hùng xem Facebook là trò chơi của giới trẻ, một mạng xã hội điện tử với những chuyện tán gẫu đời thường và vì thế họ phản ứng lại nó một cách thờ ơ. Ông Hùng hầu như không quan tâm đến những thứ thuộc về công nghệ cho đến khi ông nhận ra nó có thể mang lại lợi ích cho việc kinh doanh của ông.

Cũng như các công ty Việt Nam trong thời điểm kinh tế khó khăn, gần 3 năm qua Cửu Long Jewellery đã phải thu hẹp quy mô, đóng cửa một số cửa hàng. Dưới áp lực doanh thu, chi phí marketing phải giảm, nhưng ông Hùng cũng không thể để thương hiệu yếu dần. Ông bắt đầu thay đổi chiến lược: định vị lại phân khúc sản phẩm. Từ thương hiệu cao cấp, Cửu Long Jewellery chuyển mình thành thương hiệu đa phân khúc, tập trung nhiều hơn vào sản phẩm trang sức cưới chứ không chỉ là các dòng sản phẩm phục vụ số ít người tiêu dùng thượng lưu.

Cùng với sự thay đổi chiến lược, bài toán đặt ra là làm sao quảng bá thương hiệu cho số đông mà không phải tốn ngân sách quá lớn. "Tôi nghe nói có một thế giới gói gọn chỉ trong 1 trang web. Và tôi nghĩ mình có thể làm một thứ gì đó với nó mà không phải tốn nhiều tiền".

Thế giới mà cách đây 6 tháng ông Hùng khám phá ra là Facebook, một cộng đồng mạng xã hội được thành lập năm 2004 ở Mỹ hiện đã có hơn 800 triệu người dùng. Facebook Việt Nam dù hoạt động không chính thống tại đây nhưng cũng đã trở thành món ăn tinh thần của một bộ phận lớn giới trẻ và cận trung niên, từ 25-34 tuổi.

Việc tiếp thị cho Cửu Long Jewellery được ông Hùng thực hiện khá dễ dàng trên Facebook. Ông tạo lập một mạng lưới bạn bè và mời gọi đối tác, khách hàng tham gia, đưa số lượng người tham gia từ con số 0 cách đây 6 tháng lên hơn 5.000. Bên cạnh đó, ông còn triển khai các cuộc thi có thưởng để quảng bá thương hiệu. Nếu bạn muốn cùng người yêu tận hưởng một buổi tối lãng mạn ở nhà hàng Charm-Cham có xe riêng đưa đón, được sở hữu một bộ hình cưới miễn phí và một bộ trang sức cưới trị giá hơn 20 triệu đồng thì hãy viết những lời yêu thương để được "Like" (tính năng bình chọn) nhiều nhất trong cuộc thi "Lời tỏ tình" do Cửu Long Jewellery tổ chức trên Facebook.

Vấn đề không phải là tôi hay bạn sẽ có bao nhiêu cơ hội đạt được giải thưởng từ các cuộc thi tương tự mà là nhà kinh doanh đang thu được rất nhiều lợi ích từ nó. Chính ông Hùng không khỏi ngạc nhiên với số lượng thành viên liên tục tăng và doanh thu sau 6 tháng đã tăng 5%. "Con số tăng trưởng doanh thu không phải quá cao nhưng nó cho tôi thêm nhiều niềm tin về tương lai của các mạng xã hội", ông Hùng chia sẻ.

Trước cả các ông chủ doanh nghiệp, các nhà tiếp thị (marketer) đã xem mạng xã hội là lựa chọn tốt bên cạnh các kênh tiếp thị truyền thông. Bà Nguyễn Thùy Châu, Giám đốc Kinh doanh và Tiếp thị, Công ty Sophie Paris Việt Nam, chuyên phân phối các phụ kiện thời trang cho giới nữ, cho biết, cách đây 1 năm, hãng này đặt mục tiêu tạo lập được 10.000 nhà phân phối với doanh thu 40 tỉ đồng tại Việt Nam. Tuy nhiên, con số này tính đến tháng 10.2011 đã là 24.000 nhà phân phối với doanh thu gần 90 tỉ đồng. "Số lượng nhà phân phối tăng một phần là do các cuộc thi mà chúng tôi tổ chức trên mạng xã hội", bà Châu chia sẻ.

Đó là câu chuyện của tháng 6, khi Sophie Paris mở một cuộc thi mang tên "Tôi yêu Sophie" trên Facebook. Theo đó, các thành viên của mạng xã hội tham gia chụp ảnh cùng các mẫu sản phẩm của Sophie và phần thưởng căn cứ vào số lượng "Like" của cộng đồng. Kết quả là sau 1 tháng, Sophie Paris thống kê có gần 4.000 người tham gia cuộc thi này. "Chúng tôi không nghĩ sẽ từ bỏ các kênh marketing khác, nhưng chúng tôi sẽ tiếp tục duy trì các hoạt động của mình trên mạng xã hội. Sophie Paris có 1 nhân viên chuyên trách việc thực hiện các hoạt động marketing trên mạng này. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ chỉ dùng Facebook và chưa có ý định tham gia các mạng xã hội Việt Nam bởi số lượng người tham gia còn hạn chế", bà nói thêm.

Tăng trưởng doanh thu của Facebook

Tăng trưởng doanh thu của Facebook

Ngay cả những ông lớn như Nokia, dù chi khá nhiều cho các kênh quảng bá truyền thống vẫn không thể ngó lơ các mạng xã hội. Bà Phan Cẩm Ly, Giám đốc Truyền thông Nokia Việt Nam, từ chối tiết lộ kết quả kinh doanh sau những đợt tiếp thị qua mạng xã hội nhưng bà khẳng định, Nokia đang xem mạng xã hội như một công cụ tiếp thị quan trọng. Facebook cũng được khá nhiều các doanh nghiệp kinh doanh loại hình "mua chung" ( Groupon ) tại Việt Nam như NhomMua, CungMua… tận dụng để quảng bá các mặt hàng họ kinh doanh.

Sự thành công bước đầu của Cửu Long Jewellery, Sophie Paris Việt Nam hay Nokia Việt Nam khớp với những thống kê của ComScore, một tổ chức đo lường hiệu quả truyền thông trực tuyến trên thế giới, rằng 87% số người dùng internet tại Việt Nam đã tham gia vào các mạng xã hội (tính đến tháng 12.2010). Dẫn đầu vẫn là Facebook, với hơn 5,3 triệu thành viên tính đến thời điểm hiện tại (theo thống kê của Ad Planner).

Bên cạnh đó, kết quả khảo sát hồi tháng 8.2011 của Công ty Nghiên cứu Thị trường Nielsen cũng cho thấy, so với mặt bằng chung của thế giới, người tiêu dùng ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi quảng cáo trực tuyến, đặc biệt là các nội dung quảng cáo có định hướng tới người dùng, thông qua các mạng xã hội.

Báo cáo này dẫn ra, có đến 69% người tiêu dùng ở Đông Nam Á đã "thích" hoặc "theo" một thương hiệu hoặc công ty trên các trang mạng xã hội, cao hơn nhiều so với bình quân thế giới là 52%. Con số này đặc biệt cao ở Việt Nam (79%) và Philippines (75%). Và các trang mạng xã hội do người dùng xây dựng nội dung (người dùng đăng ý kiến của mình lên đó) là hình thức được người tiêu dùng Đông Nam Á tin tưởng nhất. Nhìn chung, 54% người được khảo sát tin tưởng hoàn toàn hoặc một phần vào ý kiến của người tiêu dùng trên các mạng xã hội.

Tuy nhiên, sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam trong các mạng xã hội để tận dụng nó cho các hoạt động tiếp thị còn khiêm tốn. Theo Vinalink, công ty chuyên về dịch vụ khảo sát marketing trực tuyến, hiện chỉ có 1% doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến mạng xã hội. Và đó chính là lý do khiến cho đường đến lợi nhuận của các mạng xã hội Việt Nam vẫn còn thăm thẳm.

... Với không ít sự hy sinh

Phần lớn những câu chuyện ứng dụng mạng xã hội vào marketing ở trên đều có mặt ông lớn Facebook, trong khi các mạng xã hội Việt Nam còn khá nhạt nhòa trong mắt các nhà kinh doanh.

Hồ Quang Khánh, ông chủ của Cyvee, một mạng xã hội nghề nghiệp gần giống LinkedIn của thế giới, đã phải chuyển sang kinh doanh mô hình Groupon sau cuộc đầu tư hàng chục triệu USD vào mạng xã hội không mấy thành công. Nếu ngay trong giai đoạn đầu 2008-2009, Cyvee đã có xấp xỉ 70.000 thành viên thì đến nay, con số chỉ lên khoảng 100.000 thành viên. "Những khoản đầu tư cho mạng xã hội rất lớn, trong khi đó chúng tôi chỉ nhặt lại bạc cắc từ quảng cáo trực tuyến", ông Khánh trăn trở.

Vì sao các mạng xã hội lại thu hút quảng cáo ít đến như vậy? Có 2 lý do chính. Ông Ong Xuân Minh, một trong những nhà lãnh đạo đầu tiên của website 24h, khẳng định những người làm tiếp thị tại Việt Nam luôn nghi ngờ về hiệu quả của các phương tiện truyền thông mới. Sự tham gia của họ chỉ dừng lại ở mức độ thử nghiệm. Và trong khi chờ đợi để gầy dựng lòng tin của đối tượng này, các ông chủ mạng xã hội không thể có đủ doanh thu để duy trì hoạt động.

Thứ hai, theo ông Minh, lượng thành viên tham gia chưa đủ lớn ở các trang mạng xã hội Việt Nam cũng khiến các marketer chưa xem đây là mảnh đất màu mỡ cho hoạt động tiếp thị. Nguyên nhân của việc này là các trang mạng xã hội chưa thực sự đầu tư vào nội dung để thu hút thành viên, trong khi, theo chuyên gia truyền thông Juliette Powel, người nổi tiếng với tác phẩm "33 triệu người trong 1 phòng" thì với lĩnh vực truyền thông số "nội dung là vua".

Nhưng ngay cả khi có đủ tiền để chờ đợi và đủ sức làm nội dung thì không phải các mạng xã hội một sớm một chiều là đã làm giàu được. Ngay cả Facebook, ông hoàng của mạng xã hội thế giới, cũng chỉ đạt khoảng 2 tỉ USD doanh thu trong năm 2010. Cho nên không lạ gì khi hàng trăm mạng xã hội tại Việt Nam đã lặng lẽ đóng cửa. Và con số này sẽ còn nhiều nữa chừng nào các mạng xã hội chưa nhìn nhận rõ ràng về những đặc trưng của mô hình này, so với các loại hình kinh doanh online khác.

Chân lý ở đâu?

Đặc trưng đầu tiên là nguồn thu của mạng xã hội không thể chỉ dựa vào quảng cáo. Dù có những lợi thế như quảng cáo trúng đích hơn, đến những đối tượng có chọn lọc hơn nhưng thực tế, quảng cáo trên Facebook không phải là lựa chọn tốt nhất của các marketer. Hiệu quả quảng cáo trực tuyến thường được đo lường bằng chỉ tiêu "tỉ lệ nhấp chuột" (CTR) vào một mẫu quảng cáo. Tỉ lệ này trên Facebook chỉ khoảng 0,04 - 0,05% (trong số 1.000 người dùng chỉ có 4-5 người nhấp vào xem quảng cáo), thấp hơn 200 lần so với mức 8% của Google . Và không chỉ Facebook, tỉ lệ nhấp chuột thấp là điểm chung của hầu hết mạng xã hội, vì theo công ty nghiên cứu về marketing online BizReport, người dùng các trang mạng xã hội bị chi phối bởi các bài viết, các cuộc trò chuyện với bạn bè nên thường sao nhãng với quảng cáo.

Điều này cũng thể hiện rõ trong cơ cấu doanh thu của Facebook, khi doanh thu từ quảng cáo đang tăng chậm dần, thay vào đó là nguồn thu từ game và các ứng dụng. Theo EMarketer, một công ty nghiên cứu về marketing online khác của Mỹ, Facebook dự kiến đạt doanh thu 4,27 tỉ USD trong năm 2011, gấp đôi mức 2 tỉ USD trong năm 2010. Điểm đáng chú ý là trong đó doanh thu quảng cáo chỉ tăng 104% so với năm trước, đạt 3,8 tỉ USD, trong khi doanh thu từ ứng dụng Facebook Credits tăng hơn 300%, đạt 470 triệu USD. Facebook Credits là một loại tiền ảo, cho phép người dùng thanh toán tiền mua các ứng dụng, các game trên Facebook. Điều này cũng không xa lạ ở Việt Nam khi Zing Me của VNG, một công ty có tiếng về game online, hay TamTay.vn được đầu tư bởi Quỹ IDG Venture vẫn đang phải sống dựa vào nguồn thu từ game.

Tăng trưởng số lượng thành viên của Facebook

Tăng trưởng số lượng thành viên của Facebook

Thứ hai, chất lượng cộng đồng chính là tài sản của mạng xã hội. Theo chuyên gia mạng xã hội Juliette Powell hiệu quả doanh thu của mạng xã hội, mà Juliette gọi là "vốn tài chính" (financial capital), chỉ có được tối ưu khi mạng xã hội thực hiện đúng công thức "vốn xã hội" (social capital) + "vốn văn hóa" (cultural capital). Nói một cách đơn giản, chừng nào mạng xã hội xây dựng một đội ngũ "bạn bè" đủ lớn (vốn xã hội) bằng cách tạo ra các trải nghiệm thú vị (vốn văn hóa) thì tiền (vốn tài chính) mới từ đây sinh ra.

Tuy nhiên, vượt trên tất cả, dữ liệu người dùng mới là kho tàng vô tận mà các mạng xã hội chưa thể khai thác vì các cam kết bảo mật thông tin cá nhân. Cũng như nhiều mô hình kinh doanh đa nền tảng (multi-sided platform) khác, các mạng xã hội cùng lúc có 2 đối tượng khách hàng để phục vụ. Một bên là hơn 800 triệu thành viên, cung cấp khối lượng dữ liệu cá nhân khổng lồ nhưng luôn yêu cầu được bảo mật và không thích bị làm phiền bởi quảng cáo. Bên kia là các thương hiệu lớn, sẵn sàng chi tiền để tiếp cận nguồn dữ liệu cá nhân người dùng và đưa quảng cáo đến đúng đối tượng. Và mạng xã hội chỉ có thể kiếm tiền khi nào phục vụ được cả 2 khách hàng này.

Bất chấp những cảnh báo về cuộc sống yểu mệnh của các trang mạng xã hội tại Việt Nam, nhiều nhà kinh doanh vẫn tiếp tục đổ tiền của vào con đường này, tích cực xây dựng chất lượng cộng đồng, bằng cách gia tăng vốn xã hội cũng như vốn văn hóa. Chỉ trong vòng 1 năm qua, hàng loạt những gương mặt mạng xã hội mới ra đời như Anphabe.com, Truongxua.vn, Bang.vn.

Các mạng này bắt đầu định hình vốn văn hóa riêng biệt để thu hút công chúng. Bang.vn dường như đi theo con đường của Facebook (gồm các nội dung kết bạn, chia sẻ âm nhạc, hỏi đáp, quảng bá, rao vặt, việc làm, kinh doanh dữ liệu); Anphabe lại chọn phân khúc giới văn phòng, doanh nhân, chia sẻ kinh nghiệm làm ăn; Truongxua thì chọn phân khúc giới trí thức gắn bó với trường lớp.

Trong khi đó, các mạng xã hội định hình văn hóa riêng trước đó như Zing Me, iFun Me, ViHuni vẫn tìm mọi cách tăng số lượng thành viên. Gần đây nhất các mạng này đã tích hợp vào điện thoại di động để tạo nên mô hình "mạng xã hội trên điện thoại di động".

Nhìn chung, dù số lượng thành viên các mạng xã hội được dự báo sẽ gia tăng không ngừng trong thời gian tới, điều đó không đồng nghĩa các nhà kinh doanh mạng xã hội sẽ có nhiều đất sống. Có thể làm một so sánh rằng với 7 tỉ người trên thế giới thì cũng chỉ có chưa đến 10 mạng xã hội phát triển được. Con số hiện vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay như Facebook (800 triệu thành viên, tính đến tháng 9.2011), Twitter (300 triệu), LinkedIn (115 triệu người), MySpace (30 triệu)... Và câu chuyện Facebook, ông hoàng mạng xã hội hiện nay được định giá tới 70 tỉ USD dù doanh thu năm 2011 dự kiến cũng chỉ hơn 4 tỉ USD, liệu có thể chỉ là hiện tượng?

- Trọng Tú - Bảo Trâm -

(Thanh Phương -

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư)

Share:

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

GM chính thức tái lập ngôi vị hãng xe lớn nhất thế giới

Với hơn 9 triệu xe bán được trong năm 2011, hãng xe Mỹ General Motors (GM) giành lại vị trí hãng xe số 1 thế giới về doanh số từ tay đối thủ Nhật Toyota . Cuộc tái lập ngôi vị này của GM diễn ra khi Toyota có một năm trày trật với các thảm họa tự nhiên, từ lụt lội ở Thái Lan tới động đất và sóng thần ở Nhật Bản.

GM-2011

Hãng tin Bloomberg dẫn thông tin ngày 19/1 từ website của GM cho biết, năm ngoái, hãng đạt mức doanh số 9,03 triệu xe, tăng 7,6% so với mức doanh số 8,39 triệu xe mà hãng đạt được vào năm 2010.  Mức doanh số này của GM vượt dự báo của giới phân tích và đánh dấu lần đầu tiên hãng bán trên 9 triệu xe kể từ năm 2007.

Toyota hiện vẫn chưa công bố mức doanh số cụ thể của năm 2011, nhưng ước tính bán được 7,9 triệu xe trong năm vừa qua, giảm 6% so với năm trước. Vào năm 2008, Toyota đã giành vị trí hãng xe lớn nhất thế giới từ GM sau 77 năm hãng xe Mỹ giữ vững ngôi vị này.

Sự trở lại "ngôi vương" của GM cho thấy sự tiến bộ vượt bậc của hãng này chỉ sau hai năm hoàn tất quy trình phá sản với sự hỗ trợ của Chính phủ Mỹ. Vào năm 2007, khi còn ở vị trí hãng xe số 1, GM thua lỗ 38,7 tỷ USD. Theo ước tính của các chuyên gia, trong năm 2011, GM đạt mức lợi nhuận khoảng 8,1 tỷ USD.

"Sự khác biệt giữa vị trí số 1 hiện nay và trước kia của GM là lần này hãng làm ăn có lãi, và đó chính là lợi ích của việc hãng phá sản. Đứng ở vị trí số 1 là một điều tuyệt vời, nhưng càng tuyệt hơn nếu làm ăn có lãi", nhà phân tích Rebecca Lindland thuộc hãng phân tích HIS Automotive nhận xét.

Giám đốc điều hành (CEO) Dan Akerson của GM từng tuyên bố, ông đặt vấn đề tỷ suất lợi nhuận cao hơn chuyển doanh số. Mặc dù giới phân tích cho rằng, GM sẽ tăng doanh thu 2,9% trong năm nay lên 154,2 tỷ USD, CEO Akerson đặt mục tiêu tỷ suất lợi nhuận trước thuế vượt các đối thủ Ford và Volkswagen.

Hiện Chính phủ Mỹ vẫn đang nắm giữ 1/3 cổ phần của GM. Để hòa vốn, Washington phải bán được số cổ phần này với mức giá 53 USD/cổ phiếu. Tuy nhiên, giá cổ phiếu của GM tính đến cuối phiên giao dịch ngày 19/1 tại New York mới chỉ gần 25 USD/cổ phiếu. Năm 2011, giá cổ phiếu của GM giảm 45%, nhưng từ đầu năm tới nay, cổ phiếu này đã tăng giá 22%.

Trong năm 2010, GM lãi 6,17 tỷ USD. Trong 9 tháng đầu năm 2011, GM lãi 8,47 tỷ USD.

Trong 3 quý đầu năm 2011, doanh số của Toyota giảm 8,8% còn 5,77 triệu chiếc, do gián đoạn sản xuất vì trận lụt nghiêm trọng ở Thái Lan và trận động đất, sóng thần lịch sử ở Nhật Bản. Không chỉ bị GM vượt qua, Toyota còn có khả năng bị đối thủ Đức Volkswagen cho "hít khói" về doanh số trong năm 2011.

Volkswagen mới đây cho biết doanh số tăng 14% trong năm ngoái, lên mức 8,16 triệu chiếc. Hãng này đã tuyên bố mục tiêu vượt qua GM và Toyota về doanh số trong thời gian từ nay đến năm 2018.

Hãng nghiên cứu R.L. Polk & Co. mới đây dự báo, doanh số thị trường ôtô toàn cầu năm nay sẽ tăng trưởng 6,7% lên mức 77,7 triệu chiếc.

- Phương Anh -

(Phương Trinh -

Theo Vneconomy)

Share:

Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Viettel, Mobifone, Vinaphone - ai tốt nhất?

Hôm nay, ngày 19/1, tại Hà Nội, Báo Bưu điện Việt Nam công bố kết quả khảo sát chất lượng dịch vụ các mạng di động tại Việt Nam, theo đó MobilFone là cái tên được xướng cho danh hiệu "Mạng di động có dịch vụ tốt nhất Việt Nam".

mobifone-no1

Người dùng di động chọn Viettel nhiều nhất khi đăng ký thêm thuê bao, nhưng lại đánh giá chất lượng dịch vụ và chất lượng sóng của MobiFone cao nhất - theo khảo sát vừa công bố của Báo Bưu điện Việt Nam.

Theo kết quả của cuộc khảo sát, đối với câu hỏi "Nếu cần sử dụng thêm một thuê bao di động nữa, anh/chị chọn mạng nào"? Có đến 26,7% người dùng trả lời chọn Viettel. Một tỷ lệ xấp xỉ (26,8%) trả lời rằng họ còn đang phân vân. Còn lại, tỷ lệ người dùng chọn Mobifone và Vinaphone tương ứng là 24,1% và 14,6%.

Đối với câu hỏi "Nếu giữ nguyên số đang dùng và đổi mạng, anh/chị sẽ lựa chọn mạng di động nào?", tỷ lệ cao nhất cũng thuộc về Viettel với 26,7%, tiếp đến là Mobifone 24,1% và Vinaphone 14,6%.

Có lẽ, quyết định lựa chọn mạng di động của người dùng phụ thuộc nhiều vào chi phí và độ an toàn, khi mà cả hai hạng mục này Viettel đều dẫn đầu.

Ở nội dung đảm bảo an toàn thông tin và bảo mật cao đối với các dịch vụ 3G, Viettel đạt 3,54 (điểm tối đa là 5), bằng với Mobifone; về chi phí hợp lý, Viettel đạt 3,36 trong khi Vinaphone là 3,32, Mibifone là 3,22.

Tuy nhiên, người dùng dịch vụ di động cả hình thức thuê bao trả trước và trả sau đều đánh giá chất lượng dịch vụ của mạng di động MobiFone cao nhất với điểm số tương ứng của thuê bao trả trước là 3,92/5 điểm và thuê bao trả sau là 3,95/5 điểm. Tiếp đến là các mạng di động Viettel (điểm tương ứng là 3,85 và 3,88 điểm), VinaPhone (điểm tương ứng là 3,83 và 3,72 điểm)…

Về chất lượng sóng, tốc độ đường truyền, Mobifone đều dẫn trước, điểm tương ứng 3,37 và 3,36 (trong khi Viettel đạt 3,29 và 3,25). Ở nội dung về tính cước chính xác, Vinaphone dẫn đầu, đạt 3,39 điểm; Viettel 3,27; Mobifone 3,22.

Cuộc khảo sát chất lượng dịch vụ các mạng di động tại Việt Nam tiến hành thăm dò ý kiến tiêu dùng đối với 7 mạng di động gồm: MobilFone, Viettel, Vinaphon, S-Fone, Beeline , Vietnamobile và EVN Telecom. Khảo sát tập trung vào các vấn đề liên quan đến chất lượng dịch vụ. Cuộc khảo sát được thực hiện với hình thức phỏng vấn trực tiếp 3.200 người sử dụng dịch vụ thông tin di động tại thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh trong tháng 11 và 12/2010.

Ông Võ Đăng Thiên, Tổng Biên tập Báo Bưu điện Việt Nam cho biết, dự kiến cuộc khảo sát này sẽ được tổ chức thường niên và mở rộng khảo sát sang các lĩnh vực dịch vụ Công nghệ Thông tin, phân phối sản phẩm Công nghệ thông tin... Một phần kết quả của cuộc khảo sát chất lượng dịch vụ các mạng di động tại Việt Nam sẽ được sử dụng như một tiêu chí phục vụ cho việc xét chọn giải thưởng "Doanh nghiệp viễn thông di động có chất lượng dịch vụ tốt nhất" của Giải thưởng CNTT-TT Việt Nam 2010 (VITA 2010) mà Báo Bưu điện Việt Nam là cơ quan thường trực.

- Minh Diệp, Vũ Nga -

(Thanh Phương -

Theo PCWorld Viet Nam, TamNhin.net)

Share:

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012

Bùng nổ đầu cơ vào các mạng xã hội

mangxahoiDù chưa niêm yết nhưng cổ phiếu của 2 trang Mạng xã hội Facebook và Twitter được săn lùng ráo riết trên thị trường xám (nơi giao dịch chứng khoán chưa niêm yết chính thức).

Đây chẳng khác gì một cuộc đổ xô đi tìm vàng. Các nhà đầu tư trên toàn thế giới đang tìm cách hưởng lợi từ sự thành công nhanh chóng của các mạng xã hội như Facebook và Twitter. Hai doanh nghiệp này vẫn chưa được niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng một thị trường xám đã được tổ chức trên các sàn giao dịch trực tuyến như Sharespost hay SecondMarket để làm nơi gặp gỡ cho các nhà đầu tư đang sốt ruột và các cổ đông tìm kiếm cơ hội. Việc giá cả có thể tăng cao gấp 2 hay 3 lần so với ước tính chính thức và mối quan tâm ngày càng lớn dành cho các công ty mới khởi sự chính là nguyên nhân của các cuộc giao dịch này.

Giao dịch sôi động

Trong khi chờ đợi khả năng Facebook hoặc Twitter lên sàn, các sàn giao dịch trực tuyến là nơi duy nhất dành cho các nhà đầu tư bên ngoài thâm nhập các "ngôi sao" mạng xã hội như Facebook, LinkedIn và Twitter, hay các công ty phát triển các ứng dụng đang lên như Zynga và RockYou. Các sàn giao dịch này cũng cho phép cổ đông hiện hữu củng cố vị trí của họ. Chẳng hạn như quỹ đầu tư DST Global của Nga đã mua thêm 100 triệu USD cổ phần của Facebook trên thị trường xám và hiện giờ tổng đầu tư của DST Global vào Facebook là 200 triệu USD.

Trên SharesPost, một nhà đầu tư có thể mua các lô 1.000 hoặc 1.500 cổ phiếu Facebook với giá khoảng 25 đến 38 USD/cổ phiếu, tính ra giá trị của mạng này lên từ 57 đến 86 tỉ USD! Facebook hiện được định giá chính thức khoảng 42,3 tỉ USD. Giá của Twitter "dễ chịu" hơn, từ 20 đến 24 USD/cổ phiếu. Mạng xã hội này có giá 3,7 tỉ USD sau đợt tăng vốn vào tháng 12 và có thể leo lên mức 5,4 tỉ USD.

Có giá khá đắt nhưng các cổ phiếu này vẫn tìm được người mua và thành công nhanh chóng của các công ty mới khởi sự này đã hấp dẫn nhà đầu tư đến từ Thung lũng Silicon. Trong vòng một năm, Facebook đã có thêm 200 triệu thành viên và tổng số người dùng Facebook hiện khoảng hơn 550 triệu. Doanh số công ty này có thể lên đến 2 tỉ USD vào năm 2010 và sự phát triển của thị trường các tài sản ảo sẽ còn thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động của Facebook. Số lượng người dùng mới của Twitter ít hơn, khoảng 100 triệu thành viên và thu nhập của công ty này cũng tăng mạnh.

Cơ quan giám sát vào cuộc

Những cuộc giao dịch trên thị trường xám đã bùng nổ không kém sự tăng trưởng mạnh mẽ của Facebook, Twitter và Zynga trong năm 2010. Theo tờ Wall Street Journal, trên SharesPost, số cuộc giao dịch đã tăng gấp 3 lần trong một năm. Còn trên SecondMarket, giá trị giao dịch đạt gần 400 triệu USD, tăng 4 lần so với năm 2009.

Các giao dịch sôi động này tất nhiên đã khiến Ủy ban chứng khoán của Mỹ (SEC) chú ý. Theo tờ New York Times, SEC đã yêu cầu chủ các sàn giao dịch nói trên cung cấp thông tin. SEC quy định một doanh nghiệp tư nhân không được phép có nhiều hơn 500 cổ đông và những người tham gia mua bán cổ phần phải được cung cấp thông tin đầy đủ về doanh nghiệp. Lo ngại các thông tin bí mật có thể bị lộ, hồi đầu năm, Facebook đã thông qua nguyên tắc nội bộ để kiểm soát việc mua bán cổ phần Công ty trên thị trường xám.

- Ngọc Trung -

(Phương Trinh -

Theo NCĐT/ Le Figaro )

Share:

Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012

Những công ty thành đạt nhất thế giới năm 2010

apple2010Dựa trên số liệu của Boston Consulting Group, tạp chí Bloomberg BusinessWeek (Mỹ) vừa công bố 25 công ty được đánh giá là có nỗ lực đổi mới lớn nhất, thành đạt nhất trong năm 2010.

Đánh giá trên được căn cứ vào kết quả thăm dò ý kiến của 1.590 các giám đốc điều hành trên toàn cầu. Sau đây là 10 công ty chiếm ngôi đầu bảng:

1. Apple

Với nỗ lực không mệt mỏi kể từ khi thành lập năm 1976, hãng thiết kế và chế tạo các sản phẩm điện tử tiêu dùng, phần mềm và máy tính Apple Inc. đã cho ra đời nhiều sản phẩm, tạo ra cuộc cách mạng về nhu cầu các sản phẩm công nghệ kỹ thuật số. Sản phẩm được yêu thích của hãng là iPad đã "lấn át" thị trường các sản phẩm cầm tay khác netbook và máy tính xách tay.

2. Google

Google and Apple một thời từng là liên minh, nhưng với sản phẩm điện thoại di động thông minh Droid, Google đã lấn sang địa bàn điện thoại di động thông minh iPhone của Apple. Song song với sự "lấn sân" này, dự án "Mạng cho cộng đồng" của Google mở ra triển vọng xây dựng hệ thống mạng ở các thành phố của Mỹ có tốc độ truyền dẫn nhanh hơn 100 lần các dịch vụ hiện có.

3. Microsoft

Hãng phần mềm khổng lồ này luôn nhanh chóng sửa sai và tung ra các sản phẩm sau ưu việt hơn các sản phẩm trước. Hệ điều hành Windows 7 của Microsoft đã khắc phục thiếu sót của phần mềm Vista, trong khi Bing nắm giữ trên 10% thị phần trên thị trường tìm kiếm trực tuyến. Sản phẩm mới "Microsoft Outlook 2010" ngoài việc quản lý e-mail và lịch trình còn cập nhật thông tin từ các Mạng xã hội qua tính năng Microsoft Outlook Connector.

4. IBM

IBM đã bước ra khỏi lĩnh vực kinh doanh phần cứng và phát triển thành công ty tư vấn công nghệ toàn cầu. IBM đã hợp tác với một bệnh viện ở Toronto để giúp các bác sỹ theo dõi những thay đổi trong từng phút về tình hình sức khỏe của các em bé sinh thiếu tháng.

5. Toyota Motor

Trong nhiều năm hãng chế tạo ô tô lớn nhất thế giới này là hình mẫu về đổi mới, nhờ danh tiếng về chất lượng xe và sự đi đầu của trên thị trường xe động cơ lai thân thiện với môi trường. Sau một loạt vụ thu hồi ô tô để sửa chữa lỗi chân ga thì sự tái đổi mới tiếp theo của Toyota chính là hình ảnh của chính mình.

6. Amazon .com

Máy tính bảng iPad của Apple ra đời có thể nhằm đánh bại đối thủ Kindle, nhưng iPad thậm chí chưa xuất hiện tại các cửa hàng khi trang web bán lẻ trực tuyến Amazon công bố các ứng dụng của Kindle cho iPad và Mac.

7. LG Electronics

Giám đốc điều hành LG Yong Nam đã mời những tài năng hàng đầu từ các công ty đa Quốc Gia lớn của thế giới như IBM, Hewlett-Packard và Procter & Gamble về làm việc nhằm đưa LG trở thành một công ty toàn cầu trong lĩnh vực điện tử tiêu dùng. Giới kinh doanh đã ghi nhận sự thay đổi và vì thế năm 2010 họ đã "thăng hạng" LG trong danh sách các công ty đổi mới nhất thế giới, từ vị trí 27 năm 2009 lên thứ 7 năm 2010.

8. BYD

Được giao dịch trên sàn từ cuối năm 2007, BYD là công ty Trung Quốc đầu tiên nằm trong danh sách này. Đặt trụ sở tại Trung Quốc, nhưng công ty này đã thu hút được sự chú ý của nhà tài phiệt Warren Buffett của Mỹ và các nhà đầu tư khác chính nhờ những sản phẩm mới của hãng là xe động cơ lai và xe chạy điện.

9. General Electric

Tập đoàn này điều hành một trung tâm nghiên cứu về mọi thứ, từ công nghệ nano đến sinh học. Các phòng thí nghiệm của General Electric (GE) năm 2009 đã nộp 2.537 đơn xin cấp bằng sáng chế. Dự án lập bản đồ não người mang tên "Human Connectome" là một dự án đáng chú ý của GE.

10. Sony

Doanh số bán bộ trò chơi PlayStation 3 của Sony đã tăng đáng kể kể từ sau khi công ty có trụ sở tại Tokyo này giới thiệu một mẫu trò chơi mỏng và rẻ hơn hồi cuối tháng 9/2009. Trong vòng hai tháng sau khi tung ra thị trường Bắc Mỹ hồi tháng 9/2010 và ở Nhật Bản tháng 10/2010, Sony đã bán được trên 4 triệu máy chơi game Move, bỏ xa sản phẩm cùng loại Kinect của Microsoft.

Đứng vị trí tiếp theo trong danh sách này là hãng điện tử tiêu dùng hàng đầu Hàn Quốc Samsung Electronics. Samsung đã đầu tư hàng tỷ USD vào 24 phòng thí nghiệm nghiên cứu và phát triển trên toàn thế giới để giữ vững vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực chip nhớ và TV màn hình tinh thể lỏng.

Tuy không lọt vào tốp 10, nhưng năm 2010 là năm thành công nhất trong lịch sử của Intel với lợi nhuận ròng tăng 167% lên 11,7 tỷ USD. Hãng chế tạo vi mạch lớn nhất thế giới này vừa giới thiệu chip thế hệ mới Sandy Bridge mà hãng cho là "sản phẩm tốt nhất của hãng từ trước đến nay".

Đứng các vị trí từ 13 đến 25 theo thứ tự là Ford Motor (Mỹ); Research in Motion (Canađa); hãng chế tạo ô tô Volkswagen (Đức); hãng chế tạo máy tính và máy in Hewlett-Packard (Mỹ); hãng chế tạo xe ô tô nhỏ và "cực rẻ" Tato Group (Ấn Độ), BMW - một trong những hãng chế tạo ô tô hạng sang thành công nhất thế giới nhờ tích cực đổi mới; hãng nước giải khát Coca-Cola (Mỹ); hãng sản xuất trò chơi điện tử Nintendo (Nhật Bản); tập đoàn kinh doanh chuỗi siêu thị bán lẻ Wal-Mart Stores (Mỹ) với đổi mới thân thiện với môi trường đáng ghi nhận là giảm lượng bao gói đi 5% vào năm 2013; hãng chế tạo ô tô Hyundai Motor (Hàn Quốc) trong thời gian ngắn từ chỗ chỉ là công ty sản xuất ô tô giá rẻ đã có hệ thống R&D trên toàn cầu và phát triển xe dòng "i-flow" giảm đáng kể khí thải; hãng chế tạo điện thoại di động lớn nhất thế giới Nokia - hãng đã dành 1/3 nguồn lực cho R&D, nhưng thị phần của hãng trên thị trường điện thoại di động "béo bở" cũng bị giảm sút. Đứng hai vị trí cuối trong tốp 25 là tập đoàn Virgin Group (Anh) và hãng sản xuất hàng tiêu dùng Procter & Gamble (Mỹ).

- Như Mai -

(Phương Trinh -

Theo Tamnhin.net/ Bloomberg Business Week )

Share:

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012

Vì sao Google phải thay tướng?

eric-schmidt-googleNgày 20/1, Google đã gây bất ngờ cho toàn thế giới công nghệ với tin Larry Page, một trong hai nhà sáng lập, chính thức trở thành CEO thay thế Eric Schmidt, vị trị ông đảm nhiệm từ tháng 8/2001vào tháng 4/2011.

10 năm dưới vai trò chèo lái của Schmidt, Google đã có bước tiến vượt bậc. Đặc biệt là sự kiện bán cổ phiếu ra công chúng vào tháng 4/2004 đã làm điên đảo các nhà đầu tư thèm khát công ty cung cấp dịch vụ tìm kiếm trực tuyến hàng đầu này. Theo công bố mới nhất doanh thu của Google năm 2010 đạt 8.44 tỷ USD cao hơn 26% so với năm 2009. Lợi nhuận của quý 4 -2010 đạt 2.54 tỷ USD so với cùng kỳ năm ngoái đạt 1,97 tỷ USD. Những con số vượt mức kỳ vòng của các nhà đầu tư phố Wall. Vậy tại sao lại có sự chuyển đổi nhân sự cao cấp này?

Tinh giản cơ cấu lãnh đạo

Theo bức thư của Schmidt đăng trên Blog của Google nói "Google đã phát triển quá nhanh, việc quản lý kinh doanh trở nên vô cùng phức tạp. Chúng tôi đã thống nhất tinh giản cơ cấu lãnh đạo để việc ra quyết định nhất quán và nhanh hơn".

Schmidt sẽ chuyển sang đảm nhận phụ trách các hoạt động giao dịch và quan hệ ngoại giao với chính phủ. Trong khi đó, Sergey Brin sẽ tập trung vào hoạt động chiến lược sản phẩm.

Hội chứng Apple 's.

Ngay sau khi có quyết định của Schmidt, giá trị cổ phiếu của Google trên phố Wall lập tức tăng 2%. Tất cả những con số của Google đều cho thấy Schmidt làm rất tốt nhiệm vụ của mình vậy tại sao các nhà đầu tư lại kỳ vọng Larry Page quay lại vị trị CEO nhiều đến như vậy? Đó chính là hội chứng Apple's. Khi Steve Jobs quay lại nắm quyền lãnh đạo Apple năm 1997 từ Gil Amelio bị sa thải vì doanh thu của hãng kém cỏi. Apple lúc đó gần như mất bóng trong làng công nghệ. 13 năm dưới bàn tay của Steve, Apple đã trở thành một thế lực thực sự trong làng công nghệ và viễn thông với các sản phẩm đình đám mang thương hiệu iX (iPad,iPhone, iTurn, iPod…) và chiến lược marketing hoàn hảo. Giá trị của Steve tại Apple còn được khẳng định hơn nữa khi ngày 18/1 khi có tin Steve phải nghỉ ở Apple để điều trị căn bệnh tim, cổ phiếu của Apple tại thị trường chứng khoán Frankfurt 6,2% còn 244,05 euro/cổ phiếu (tương đương 326,41 đô la Mỹ/cổ phiếu).

Larry Page, giống như Steve Jobs, là những người đồng sáng lập công ty của mình. Trước khi nhường vị trí CEO cho Schmidt vào năm 2001, Larry Page chính là CEO của Google.

Và nhà đầu tư hi vọng vào sự trở lại của Page sẽ giống như Steve, sáng tạo và đưa ra nhiều sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn cũng như các chiến lược kinh doanh trên những dòng sản phẩm khác như YouTube, Android,…

Larry Page đã sẵn sàng!

Khi trả lời 1 trong 225,000 bình luận trên trang cá nhân Twitter lý do ra đi của ông, Schmidt trả lời "Larry đã sẵn sàng".

Không phải nhận định của một người từng làm CEO của tập đoàn Novell trước khi có 10 năm làm CEO tại Google cùng với Larry Page và Sergey Brin là không có cơ sở.

google-founders

Larry sinh ngày 26/3/1973 tại Michigan, Mỹ. Có thể nói gia đình Larry thuộc thế hệ nhà nòi về khoa học máy tính. Bố là giáo sư chuyên ngành khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo tại Đại học Tiểu bang Michigan. Mẹ là Gloria Page, một trong những cử nhân đầu tiên thuộc ngành khoa học máy tính tốt nghiệp tại Đại học Tiểu bang Michigan. Ngoài ra, Page còn có một người anh là Carl Victor Page, Jr., đồng sáng lập ra eGroups, sau này được bán lại cho Yahoo! với giá cỡ nửa tỉ đô.

Cùng với Sergey Brin, năm 1998, Larry Page đã cho ra đời cỗ máy tìm kiếm Google dựa trên công trình nghiên cứu của họ tại trường đại học danh tiếng Standford.

Và năm 2010, theo danh sách của Forbes Larry Page xếp thứ 24 trong số những người giàu nhất thế giới với tài sản lên tới 17,5 tỷ USD.

Năm 2007 Larry Page được tạp chí danh tiếng PC World bầu chọn là 1 trong 50 người quan trọng nhất của thế giới web, ông còn được World Economic Forum vinh danh là nhà lãnh đạo toàn cầu tương lai.

Cạnh tranh dịch vụ trực tuyến.

Goolgle sẽ như thế nào, chỉ có thời gian mới có câu trả lời chính xác! Nhưng sự kiện Google thay tướng cũng cho thấy sự cạnh tranh toàn cầu về những dịch vụ trực tuyến. Yahoo đang lấy lại ổn định, đặt mục tiêu chiếm 24% thị phần năm 2013, Microsoft cũng đang có những chiến lược mới với Bing, còn Facebook thì đang được ví như là một thế hệ kế tiếp Google, bên cạnh Twitter, MySpace hay Groupons…

- Vũ Nguyên -

(Thanh Phương -

theo Tamnhin.net/Reuters, WSJ, Economist)

Share:

Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

Du lịch Việt Nam có logo mới

slogan "Sự khác biệt Á Đông" (tiếng Anh: "A Different Orient") cùng biểu tượng ngôi sao với 5 sắc màu đã chính thức được chọn là tiêu đề- biểu tượng mới của ngành du lịch Việt Nam giai đoạn 2011-2015.

Sự khác biệt Á Đông - Ảnh: SGTT

Tác phẩm này đã được trao giải nhất tại cuộc thi sáng tác tiêu đề- biểu tượng (logo- slogan) cho chương trình xúc tiến du lịch Việt Nam giai đoạn 2011–2015, do Tổng cục Du lịch tổ chức.

Sau 4 tháng phát động, cuộc thi đã nhận được 413 tác phẩm của 223 tác giả. Trong số này ban tổ chức đã chọn ra 10 tác phẩm lọt vào chung kết và từ đó lựa ra 1 giải nhất, 1 giải nhì, 1 giải ba và 7 giải khuyến khích.

Theo đánh giá của Tổng cục Du lịch, logo và slogan này đã thể hiện rõ nét nhất chiến lược phát triển, sức hấp dẫn, lợi thế cạnh tranh của ngành du lịch nước ta, góp phần thu hút ngày càng nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam.

Năm 2010, cả nước đã đón được trên 5 triệu lượt du khách quốc tế. So với kế hoạch đề ra hồi đầu năm là đón 4,2- 4,5 triệu lượt, lượng khách quốc tế đã vượt tới 19%.

Different Orient - Ảnh: SGTT

Đối với khách du lịch nội địa, toàn ngành cũng đã hoàn thành kế hoạch phục vụ khoảng 28 triệu lượt khách. Doanh thu từ du lịch ước đạt khoảng 96 nghìn tỷ đồng (vượt 20% so với kế hoạch năm).

Bước sang năm mới, mục tiêu cơ bản được ngành đề ra là đón khoảng 5,3 triệu lượt khách du lịch quốc tế và phục vụ từ 30-31 triệu lượt khách du lịch nội địa, doanh thu từ du lịch đạt 110 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,5% trong GDP.

- Y Nhung -

(Phương Trinh -

theo Vneconomy)

Share:

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

10 thương hiệu vẫn thống soái ngành truyền thông tương lai

Công nghệ và nhu cầu thông tin của độc giả sẽ tạo ra những thế lực mới trong ngành truyền thông. Tuy nhiên, 10 thương hiệu dưới đây sẽ giữ vững vị trí của mình trong thập kỷ tới.

Yahoo-Business-Insider

1. Thời báo New York (New York Times - NYT)

Trong thập kỷ tới, NYT có thể không còn đơn thuần là một tờ báo in, nhưng thương hiệu này chắc chắn vẫn tồn tại, đơn giản vì cái tên và những sản phẩm của NYT có giá trị quá cao để có thể biến mất. Cơ cấu của NYT có thể khác, lĩnh vực tin tức có thể bị thu hẹp nhưng với công nghệ và những quyết định đúng đắn, tờ báo này sẽ trở thành một trong những thương hiệu tin tức quan trọng nhất trong thời gian dài.

the-new-york-times

Tòa soạn Thời báo New York.

2. Twitter

Twitter là trang tin thời gian thực mà không công ty nào có thể làm ngơ. Thời gian tới, trang này có thể phục vụ cho việc đọc báo và xem xét các tin thời sự tốt hơn bao giờ hết, hỗ trợ tốt cho tin tức và chứng kiến sự kiện thông qua ảnh và video, bằng chứng là đã có rất nhiều tin xuất hiện trên Twitter đầu tiên, trước tất cả các trang khác.

tweepi

Twitter lấy biểu tượng là một chú chim.

3. Google

Google tiếp tục dẫn dắt thế giới trong việc quản lý, tổ chức và tìm kiếm thông tin. Trang Google News trông có vẻ nhàm chán nhưng lại là một sản phẩm khổng lồ cho lượng độc giả rộng lớn. Trong thập kỷ tới, Google dường như sẽ phát triển thêm cho Google News, ví như kết hợp với Mạng xã hội Google+.

Google_brand

"Gã khổng lồ" tìm kiếm mang tên Google.

4. Facebook

Những phản hồi trên trang Facebook trở thành một trong những nền tảng cung cấp thông tin quan trọng nhất trên thế giới, và điều này sẽ tiếp tục phát triển, đặc biệt cho các tin tức mang tính địa phương khi các phương tiện truyền thông cơ sở trở nên nhạt nhòa.

Facebook_brand

CEO của Facebook, Mark Zuckerberg.

5. Univision

Mạng và tin tức trên TV địa phương sẽ thay đổi rõ rệt trong thập kỷ tới. Nhưng Univision sẽ tiếp tục tồn tại và mở rộng quy mô cũng như tầm ảnh hưởng của mình khi lượng người nói tiếng Tây Ban Nha tại Mỹ ngày càng tăng, một điều kiện vô cùng thuận lợi để hãng tin này phát triển.

Univision

CEO Randy Falco của Univision

6. Bloomberg

Trang tin chuyên tài chính sẽ không đánh mất vị trí của mình khi họ vẫn tiếp tục viết về chuyên ngành này tốt hơn bất kỳ một công ty truyền thông nào khác. Việc Bloomberg phải làm bây giờ chỉ là đảm bảo vị trí hàng đầu của mình lúc này và đưa tin càng nhanh càng tốt.

Bloomberg_brand

CEO Michael Bloomberg của Bloomberg, hiện đang giữ chức Thị trưởng New York

7. Al Jazeera

Hầu hết người Mỹ vẫn chưa thể thăm quan tổng hành dinh của Al Jazeera tại Qatar dù họ có muốn đi chăng nữa. Trung Đông sẽ không biến mất khi còn đóng vai trò tối quan trọng trong các tin tức về xung đột cũng như phát triển. Tầm ảnh hưởng của hãng tin Al Jazeera cũng lớn như quy mô của họ sẽ còn tiếp tục được mở rộng, đặc biệt khi TV internet đang trở thành hiện thực.

al-jazeera

"Căn cứ tin tức" Al Jazeera.

8. Yahoo

Yahoo vẫn đang là một trong những cổng thông tin lớn nhất thế giới, và sẽ tiếp tục giữ vai trò thương hiệu tin tức quan trọng. Gần đây, đối thủ của Yahoo là AOL bộc lộ tham vọng lớn hơn nhằm tạo ra và nắm giữ những nhãn hiệu tốt hơn, nhưng Yahoo có vẻ chưa bị tác động. Thập kỷ tới sẽ rất thú vị khi Yahoo có thể dần mờ nhạt do lượng người dùng dịch vụ tìm kiếm và email của họ thay đổi nhưng một điều chắc chắn đây vẫn là nơi hàng triệu người cập nhật tin tức.

Yahoo_brand

Bên ngoài tổng hành dinh của Yahoo.

9. CNN

CNN không thực sự nắm giữ cái "nhất" nào trong ngành truyền thông tin tức, nhưng họ luôn ổn định, dễ tiếp cận và luôn luôn đáng tin. Đối với hàng triệu người trên thế giới, đó là những tiêu chí hàng đầu khi lựa chọn tin tức. Cái tên CNN đồng nghĩa với chất lượng tin tức được đánh giá cao và trong tương lai mọi chuyện sẽ vẫn như vậy.

CNN_brand

Ảnh chụp màn hình trang tin CNN.

10. Politico

Có thể trong thập kỷ tới tờ Washington không còn ra các ấn phẩm báo in, nhưng Politico vẫn khẳng định mình là tên tuổi quyền lực trong ngành truyền thông.

politico

Ảnh chụp màn hình trang tin Politico.

- Anh Quân -

(Đặng Quân -

Theo vnExpress/ Business Insider )

Share:

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

Đêm Gala Thương hiệu nổi tiếng Việt Nam 2010

Tiếp nối thành công của Chương trình Thương hiệu Nổi tiếng Việt Nam 2006 và 2008, tối 20/08/2011, tại Khách sạn Sheraton, 11 Xuân Diệu, Tây Hồ, Hà Nội đã diễn ra Chương trình Gala Thương hiệu Nổi tiếng Việt Nam 2010 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức.

thuong_hieu_noi_tieng_2010

Đêm Gala diễn ra nhằm chào mừng thành công của chương trình cũng như công bố kết quả khảo sát Thương hiệu Nổi tiếng tại Việt Nam 2010, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam một lần nữa về tầm quan trọng của Thương hiệu. Đêm Gala diễn ra cũng nhằm tôn vinh những doanh nghiệp có chiến lược xây dựng và phát triển Thương hiệu lâu dài, cam kết đảm bảo chất lượng hàng hóa, sản phẩm. Đồng thời giúp người tiêu dùng có thông tin đầy đủ về những Thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam.

Dự kiến buổi lễ có sự tham gia của hơn 100 khách mời là đại diện Chính phủ, bộ, ngành, hiệp hội, lãnh đạo các doanh nghiệp trên cả nước. Tại đêm Gala, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam sẽ công bố Top 500 thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, Top 10 thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam và Top 3 thương hiệu nổi tiếng đứng đầu các ngành hàng theo kết quả Dự án khảo sát của Công ty Nghiên cứu thị trường hàng đầu FTA - đại diện chính thức của ESOMAR (Hiệp hội nghiên cứu thị trường thế giới) tại Việt Nam thực hiện.

Với chủ trương thực hiện tốt Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao, chương trình Thương hiệu Nổi tiếng tại Việt Nam 2010 được thực hiện với những nội dung và các tiêu chí đánh giá cơ bản nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và phát triển thương hiệu trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Cụ thể: Chương trình xếp hạng Thương hiệu dựa trên ý kiến của Người tiêu dùng và do một công ty nghiên cứu thị trường tiến hành độc lập; Việc khảo sát, phân tích ý kiến người tiêu dùng được tiến hành một cách chuyên nghiệp, theo tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo tính khách quan và chính xác…

Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các thương hiệu trong từng ngành hàng và giữa các ngành hàng với nhau thì việc sở hữu một thương hiệu nổi tiếng có ý nghĩa sống còn cho sự phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp. Thông qua chương trình Thương hiệu Nổi tiếng Việt Nam, doanh nghiệp đã biết được thương hiệu của mình nằm ở đâu trong tâm trí khách hàng và người tiêu dùng, để từ đó, từng doanh nghiệp sẽ có được chiến lược phát triển thương hiệu lâu dài và bền vững, có thể mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm mới, các dịch vụ ngày càng tốt hơn và chuyên nghiệp hơn; đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng Việt Nam.

Download:

  • Top 3 thương hiệu đứng đầu mỗi ngành hàng
  • Top 10 thương hiệu nổi tiếng
  • Top 500 thương hiệu nổi tiếng

(Thanh Phương)

Share:

Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012

Groupon: Quy mô trước, lợi nhuận sau

Triết lý kinh doanh này của Groupon liệu có đúng khi mức lỗ ngày càng gia tăng, còn tăng trưởng doanh thu thì chậm lại?

Trong 3 tháng kết thúc vào ngày 30.6, Groupon đã lỗ 102,7 triệu USD từ mức 36,8 triệu USD của cùng kỳ năm ngoái. Mặc dù doanh thu tăng gấp 10 lần (đạt 878 triệu USD), nhưng nếu tính theo quý, doanh thu quý II tăng chỉ 36% so với quý I, thấp hơn mức tăng trưởng 63% của quý I so với quý trước đó. Với kết quả này, dường như Groupon đang ngày càng sa lầy vào kế hoạch bành trướng quy mô của mình.

groupon-triet-ly-kinh-doanh

Groupon là trang web tiên phong trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng mua theo nhóm và khuyến mãi. Ý tưởng của Groupon là hứa hẹn với các đối tác, cam kết mang cho họ một số lượng lớn người dùng xác định, nhờ các chương trình khuyến mãi tốt nhất. Groupon là nơi các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực tìm đến để quảng bá thông tin về sản phẩm, dịch vụ và đặc biệt là các chương trình khuyến mãi.

Tuy nhiên, dường như mọi điều tốt đẹp chỉ mới dừng lại ở đó. Và như thế là không thể chấp nhận được với các nhà đầu tư. Họ cần phải nhìn thấy lợi nhuận tốt từ những ý tưởng tốt.

Để thu được lợi nhuận, ban lãnh đạo một công ty phải vạch ra lộ trình sinh lãi, phải hình dung người tiêu dùng sẽ trả tiền dịch vụ của mình theo cách nào. Doanh nghiệp cũng phải xác định cơ cấu chi phí đi đôi với việc xác định phân khúc khách hàng tiềm năng. Từ đó, cắt giảm bớt các chi phí nhằm giữ tổng chi phí ở mức thấp, qua đó tạo bệ phóng cho doanh nghiệp sinh lợi. Đồng thời, để sinh lãi, doanh nghiệp phải có kế hoạch để tồn tại và phát triển ngay cả khi nguồn tài chính đầu tư bắt đầu cạn kiệt.

Vấn đề của Groupon nằm ở những điểm cốt yếu đó. Hãng chưa tìm được máy in tiền trong kho tàng tài nguyên vô tận ngày ngày xuất hiện trên trang chủ của mình. Hãng quan niệm rằng cứ phát triển về quy mô một cách kiên trì thì sẽ có lợi nhuận; khi nào quy mô đủ lớn, tiền sẽ tự chảy về.

Nhưng ngày càng có ít lý do để kỳ vọng vào điều đó. Quy mô của Hãng hiện không phải là nhỏ nhưng lỗ thì vẫn cứ lỗ. Groupon cũng không phải là mô hình mà càng đông người, giá trị gia tăng của trang web càng tăng, như Facebook hay Amazon .

Dù vậy, Groupon vẫn miệt mài bám đuổi triết lý của mình: tăng trưởng quy mô trước, thu lãi sau. Họ càng yên tâm hơn khi nguồn tiền đầu tư trong quỹ vẫn còn khoảng 1 tỉ USD. Việc gì phải vội vã kiếm tiền để mất cơ hội phát triển quy mô cho thật lớn?

Với nguồn tiền dồi dào đó, nên chăng Groupon đầu tư ở quy mô địa phương nơi mình đóng đô là Chicago thay vì vươn rộng ra khắp nước Mỹ như hiện nay. Tại Chicago, Hãng có thể đầu tư mạnh và tạo chiều sâu dịch vụ đến mức đủ để thương mại hóa và kiếm lợi nhuận tương xứng. Rồi từ mô hình có thể sinh lãi đó, Hãng có thể nhân rộng ra các địa phương khác.

Nhưng bây giờ dường như đã quá trễ. Những nhà đầu tư rót vốn vào Groupon cũng không còn kiên nhẫn nữa. Đã có những tiếng thở dài và ý định chuyển nhượng cổ phần cho ai đó. Nhưng "ai đó" cũng bắt đầu lờ mờ hiểu ra, đằng sau vị quân vương áo mũ chỉnh tề đó là một kho lương đang cạn dần theo ngày tháng.

Với tình hình làm ăn như hiện nay, Hãng sẽ nhanh chóng tiêu hết ngân quỹ đầu tư còn lại và sẽ cần thêm nguồn sữa mới để duy trì, dự kiến khoảng 750 triệu USD nữa. Như vậy là vẫn phải đầu tư để phát triển.

Còn lợi nhuận? Groupon vẫn đang cầu nguyện.

- Hồng Quý -

(Thanh Phương -

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư/BW)

Share:

Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012

Steve Jobs bất ngờ từ chức CEO Apple

"Huyền thoại" của thung lũng Silicon, Steve Jobs, vừa bất ngờ quyết định từ chức Giám đốc điều hành (CEO) hãng công nghệ Apple .

Steve Jobs được coi là "trái tim", là người khơi nguồn sáng tạo những sản phẩm công nghệ độc đáo và đầy sức hấp dẫn của Apple.

Steve Jobs bất ngờ từ chức CEO Apple

Dưới thời của Steve Jobs, Apple đã vươn lên từ một hãng ngấp nghé bờ vực phá sản, trở thành công ty có giá trị vốn hóa lớn thứ hai thế giới.

Tuy nhiên, từ hôm 17/1 tới nay, ông đã phải xin nghỉ để tham gia điều trị sức khỏe. Trước đây, Steve Jobs từng bị ung thư tuyến tụy.

"Tôi luôn nói là nếu đến một ngày nào đó, tôi không thể đảm nhận trách nhiệm cũng như sự kỳ của mình trên cương vị CEO Apple, tôi sẽ là phải là người đầu tiên nói cho các bạn biết. Thật không may là ngày đó đã tới", Steve nói trong một lá thư ngắn công bố về quyết định từ chức của mình.

Trong suốt quá trình điều trị y tế, vị CEO 55 tuổi này từng tái xuất vào tháng 3 khi Apple ra mắt mẫu iPad mới nhất và tham dự tiệc tối do Tổng thống Mỹ Barack Obama tổ chức, dành cho các lãnh đạo doanh nghiệp công nghệ ở thung lũng Silicon.

Ceo-Steve-Jobs

Steve Jobs (ảnh chụp hồi tháng 6)

Thông tin Steve Jobs rời bỏ cương vị điều hành Apple xuất hiện trên trang nhất của hầu hết các báo lớn trên thế giới sáng nay. Reuters gần như là hãng đầu tiên đưa tin. Bloomberg, Forbes ngay lập tức có phóng sự ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ của doanh nhân huyền thoại này. CBS News thậm chí còn có bài ghi nhận ý kiến xung quanh quyết định đột ngột và không ai mong muốn của Steve.

Apple cho biết, sau khi rời chức CEO, Steve Jobs được bầu làm Chủ tịch hãng. Chiếc ghế CEO của ông sẽ do Tim Cook đảm nhận.

Cổ phiếu của Apple đã giảm 7% sau tuyên bố của Apple.

Steve Jobs từ chức CEO Apple, doanh nhân toàn cầu tiếc nuối

Art Levinson , thành viên Ban lãnh đạo Apple nhận xét: "Tầm nhìn xa trông rộng và tài năng lãnh đạo của Steve đã đưa Apple trở thành công ty có nhiều đổi mới và giá trị nhất thế giới. Những đóng góp của Steve là không thể đong đếm được".

Các nhà phân tích cho rằng việc này không phải khó đoán và những tác động của nó tới chuỗi ngày sắp tới của Apple là không nhiều. Và khách hàng cũng sẽ chẳng nhận ra có sự thay đổi nào tại công ty.

Apple-CEO-Steve-Jobs

Chân dung Steve Jobs ghép từ các sản phẩm của Apple. Ảnh: wwwery.com

Một CEO tại Thung lũng Silicon đề nghị giấu tên đánh giá cách Jobs nói chuyện cho thấy tình trạng sức khỏe của ông có thể còn tệ hơn mọi người nghĩ. Jobs đã đem đến thành công cho Apple từ cách hoạt động cho tới những quyết định mang tính chiến lược, đồng thời nói sẽ không bao giờ bỏ Apple nếu ông được quyền chọn điều đó.

CEO này nói: "Điều này thực sự buồn. Chẳng ai xem chuyện này dưới con mắt thương mại, mà họ sẽ nhìn dưới khía cạnh con người. Chắc chắn không ai nghĩ rằng Jobs bỏ việc vì không muốn làm CEO của Apple nữa".

Tờ CNBC nhận xét, việc Jobs từ chức sẽ là dấu chấm cho một kỷ nguyên tại Apple, và là cánh cửa mở ra một kỷ nguyên mới.

Chủ tịch Google Eric Schmidt nói: "Steve Jobs là CEO thành công nhất tại Mỹ trong suốt 25 năm qua. Ông đã kết hợp sự nhạy cảm của nghệ sĩ với tầm nhìn của kỹ sư theo cách chỉ riêng mình làm được, và tạo nên một công ty vô cùng đặc biệt. Jobs thực sự là một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất lịch sử Mỹ".

Bloomberg dẫn lời đồng sáng lập Apple, ông Steve Wozniak : "Mọi người sẽ luôn nhớ đến Jobs, có thể tới cả trăm năm nữa, nhớ đến lãnh đạo doanh nghiệp ngành công nghệ vĩ đại nhất trong thời kỳ chúng ta đang sống. Bên cạnh Jobs là hàng ngàn nhân viên và chất lượng sản phẩm phản ánh tài năng của họ".

Trang Yahoo News đưa ý kiến của Trip Chowdhry , phân tích gia tại công ty nghiên cứu Global Equilities: "Apple là Steve Jobs, Steve Jobs là Apple, và Steve Jobs thực sự là một luồng gió mới. Bạn có thể dạy người khác cách để hoạt động và điều hành hiệu quả, có thể thuê chuyên gia tư vấn để làm những điều đó, nhưng chỉ có Chúa là người tạo ra những thay đổi...Apple mà không có Steve Jobs thì chẳng là gì cả".

Việc Steve Jobs từ chức đã có tác động tới giá cổ phiếu của Apple trên khi trường khi các nhà đầu tư có thái độ lo ngại và kém tự tin vào công ty này hơn. Trước khi thông báo chính thức được đưa ra, mỗi cổ phiếu của Apple tăng 2,58 USD, ở mức 376,18 USD tại sàn Nasdaq. Tính từ đầu năm cổ phiếu Apple đã tăng tới 17% giá trị.

Các chuyên gia trấn an giới đầu tư rằng Apple sẽ chẳng thay đổi gì, bởi Tim Cook là cánh tay phải đắc lực nhất của Jobs, đồng thời là quyền CEO trong suốt thời gian Jobs phải chiến đấu với căn bệnh ung thư. Thực tế cho thấy, thời gian Tim Cook làm CEO, Apple vẫn rất khởi sắc và chẳng ai nhận ra sự thay đổi trong hoạt động của công ty.

Steve Jobs năm nay 56 tuổi, con nuôi trong một gia đình trung lưu tại Mỹ và là một tín đồ Phật giáo Thiền tông. Ông từng bị đuổi ngay sau kì đầu tiên ở trường đại học. Apple được Jobs "khai sinh" trong gara ôtô tại nhà năm 21 tuổi và ngày nay đã trở thành công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất nước Mỹ (337,17 tỷ USD).

- Diệp Anh, Anh Quân -

(Phương Trinh -

Theo Vneconomy, Vnexpress/ Bloomberg , Forbes )

Share:

Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

Sayonara (*) Walkman

bye-walkmanCuối tháng 10/2010, Sony công bố sẽ ngừng sản xuất máy cassette mini Walkman tại Nhật Bản. Tuy Walkman sẽ tiếp tục được sản xuất tại Trung Quốc để phục vụ người tiêu dùng nước ngoài, nhưng việc chia tay tại Nhật cũng là dấu ấn khó phai cho những người hâm mộ sản phẩm điện tử lừng danh một thời...

Trẻ em thế kỷ XXI có thể không tin, nhưng Walkman từng là thành quả kỹ thuật cao cấp vượt trội của thời đại. Cassette Walkman đánh dấu bước đầu của cuộc cách mạng máy nghe nhạc và ghi âm cá nhân.

Từ đó, âm nhạc song hành cùng con người mọi lúc mọi nơi. Đối với những ai trưởng thành vào những năm 1980, thì Walkman và headphone là "của trời ban", cho phép họ sở hữu thế giới âm nhạc của riêng mình. Cha mẹ càu nhàu, nghe Walkman để giải tỏa.

Đi chơi xa với bạn bè, cũng nghe Walkman. Thậm chí, tỏ tình lãng mạn bằng bài hát, hãy làm tặng băng cassette cho nàng nghe qua Walkman...

Trong một bài viết trên Popular Music năm 1984, giáo sư Shuhei Hosokawa của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Khảo cứu Nhật Bản đã gọi đó là hiệu ứng Walkman. Hơn cả một chiếc máy cassette, thương hiệu Walkman là một hiện tượng.

Từ lần đầu xuất hiện trên thị trường năm 1979, Sony đã bán ra 220 triệu Walkman, và kéo theo sự ra đời của CD Discman và máy nghe nhạc kỹ thuật số hiện đại ngày nay.

Tuy nhiên, bây giờ là thời đại của iPod. Walkman năm 2010 như cái hộp cổ lỗ sĩ, to tướng. Hơn thế nữa, Sony không còn thống lĩnh ngành sản xuất thiết bị điện tử, mà đã bị Apple và nhiều hãng khác qua mặt.

Tuy tiếc thật, nhưng cũng đã đến lúc nói lời chia tay chiếc máy nghe nhạc và ghi âm mini đã từng lừng danh một thuở. Walkman, sayonara!

(*) Trong tiếng Nhật, Sayonara là tạm biệt (không hẹn ngày gặp lại)

- Thủy Tiên -

(Thanh Phương -

theo Doanh Nhân Sài Gòn)

Share:

Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012

BP tuyên bố lỗ 4,9 tỉ đô la Mỹ

bp_logoCông ty dầu khí BP ngày 1-2-2011 tuyên bố lỗ 4,9 tỉ đô la Mỹ trong năm 2010. Đây là lần đầu tiên trong gần 20 năm qua BP bị lỗ, sau sự cố tràn dầu tại vịnh Mexico.

Nguyên nhân lỗ chủ yếu do BP dành 25 tỉ đô la Mỹ chi phí làm sạch dầu tràn tại vịnh Mexico. Năm 2009, BP đạt lợi nhuận đến 14 tỉ đô la Mỹ.

Giám đốc điều hành BP, ông Robert Dudley, cho biết BP sẽ khôi phục lại việc trả cổ tức cho cổ đông. Sau sự cố tràn dầu tại vịnh Mexico, BP đã ngưng việc trả cổ tức cho cổ đông. Tuy nhiên, cổ tức cuối năm 2010 sẽ giảm so năm 2009.

Thực tế, trong quí 4-2010, BP lãi 4,6 tỉ đô la Mỹ, cao hơn 1/3 lợi nhuận cùng kỳ năm 2009. Lợi nhuận quí 4-2010 của BP tăng một phần do giá dầu tăng cao.

BP cho biết trong một tuyên bố rằng sẽ bán 2 nhà máy lọc dầu tại Mỹ, đồng thời cơ cấu lại công ty.

Giáo sư chiến lược học của Cass Business School tại Luân Đôn, ông Joseph Lanpei Er, cho biết trong năm nay, BP sẽ tiếp tục sử dụng chiến lược của năm ngoái. Ông nói BP sẽ tiếp tục nhấn mạnh sự an toàn và cố gắng nâng cao tính thanh khoản.

- Phúc Minh -

(Phương Trinh -

theo TBKTSG/ BBC )

Share:

Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012

Xu hướng “lên mạng” của các nhà bán lẻ

nha-ban-leNói về chuỗi cửa hàng bán lẻ hàng đầu thế giới là nói đến Walmart. Walmart có hơn 8.000 cửa hàng trên toàn thế giới với số nhân viên lên đến hơn 2 triệu người. Doanh thu năm 2009 của Wal-Mart vượt trên 408 tỷ đô-la Mỹ.

Đó là những con số mà chúng ta dễ dàng biết đến, nhưng ít ai biết Walmart đứng thứ 3 trong danh sách 50 trang web bán lẻ được người tiêu dùng trên toàn thế giới ưa thích nhất (Top 50 – The online retailer shoppers like most) chỉ sau Amazon và eBay. Tại Việt Nam, một số nhà bán lẻ đã nghiên cứu và có những bước đi đầu tiên vào lĩnh vực kinh doanh trực tuyến.

Những nhà bán lẻ nội địa hàng đầu như CoopMart, Citimart, Maximark, Fivimart… từ nhiều năm qua đều đã đầu tư trang web riêng nhưng đang dừng ở mức giới thiệu công ty và giới thiệu mặt hàng. Gần đây, với sự tham gia của các chuỗi bán lẻ nước ngoài như Lotte Mart, Family Mart… thì thị trường này đang ngày càng trở nên sôi động với việc nhiều nhà bán lẻ đẩy mạnh việc mở rộng địa bàn và tăng số lượng cửa hàng. Mở rộng thị phần và chiếm lĩnh các địa điểm tốt tại các tỉnh thành có lẽ vẫn là hướng đi quan trọng nhất đối với lĩnh vực bán lẻ trong giai đoạn này. Tuy vậy, có không ít nhà bán lẻ đang song hành phát triển cả chuỗi cửa hàng lẫn kênh bán lẻ trực tuyến. Có thể kể đến Nguyễn Kim, Thế Giới Di Động, Viễn Thông A… là những công ty đã đi tiên phong phát triển cả hai kênh bán hàng.

Những bước đi ban đầu

Đại diện một số nhà bán lẻ từng nói rằng trước khi quyết định đầu tư kênh bán lẻ trực tuyến, điều họ quan tâm nhất là thói quen tiêu dùng, vì sự chấp nhận của người tiêu dùng đối với loại hình này vẫn chưa cao và hạ tầng kỹ thuật trong hoạt động thanh toán, bảo mật vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Ngược lại, từ phía người tiêu dùng thì việc hình thành thói quen mua sắm trên mạng còn gặp khó khăn, phần lớn là do yếu tố niềm tin. Khi giao dịch trực tuyến, người tiêu dùng lo lắng không biết chất lượng món hàng có tốt không (vì không được thấy tận mắt, sờ tận tay), hàng có bị giao trễ hay không… và chỉ khi những khúc mắc này được gỡ bỏ thì thói quen mua sắm trực tuyến mới khởi sắc và phát triển.

Nếu nhìn nhận toàn thị trường thương mại điện tử dưới góc nhìn thận trọng của các bên tham gia thị trường như phân tích như trên thì chúng ta có thể thấy được các nhà bán lẻ có lợi thế rất lớn khi cạnh tranh trong thị trường này và có được lòng tin của người tiêu dùng. Các sàn thương mại điện tử hiện đang có mô hình gian hàng bảo đảm, dùng uy tín của sàn để bảo đảm cho sản phẩm, dịch vụ của nhà cung cấp nhằm gia tăng sự tin tưởng của khách hàng. Tuy nhiên, hình thức bảo đảm này cũng không tạo được lòng tin như uy tín và thương hiệu của nhà bán lẻ đã gây dựng trên thị trường.

Ngoài ra, nhà bán lẻ còn có lợi thế nguồn hàng đa dạng, chất lượng đã được kiểm định và hệ thống giao nhận đã hoàn thiện. Do đó, nếu họ mạnh dạn đầu tư phát triển kênh trực tuyến với những lợi thế sẵn có thì họ sẽ có cơ hội trở thành những "đầu tàu" trong thị trường thương mại điện tử. Câu hỏi còn lại duy nhất là liệu thị trường thương mại điện tử đã sẵn sàng cho giai đoạn bùng nổ hay chưa.

Bộ Công Thương đã định hướng kế hoạch tổng thể thương mại điện tử giai đoạn 2011-2015 và đề ra những mục tiêu, cụ thể: phát triển các tiện ích cho người tiêu dùng tham gia thương mại điện tử như 70% siêu thị, trung tâm mua sắm và các cơ sở phân phối hiện đại cho phép người tiêu dùng thanh toán không dùng tiền mặt khi mua hàng; 50% đơn vị cung cấp dịch vụ điện, nước, viễn thông và truyền thông chấp nhận thanh toán phí dịch vụ qua phương tiện điện tử; 30% cơ sở kinh doanh trong các lĩnh vực thương mại - dịch vụ như: vận tải, văn hóa thể thao và du lịch…. Như vậy, có thể xem giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn chuẩn bị, với sự phát triển mạnh mẽ của hạ tầng viễn thông, hạ tầng di động và hạ tầng thanh toán điện tử.

Ngân hàng Nhà nước cũng đặt trọng tâm giai đoạn 2011-2015 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của việc thanh toán không dùng tiền mặt (là yếu tố nền tảng quan trọng của thị trường thương mại điện tử). Tháng 10 vừa qua, hệ thống POS đã được liên thông tại Hà Nội và sau đó cũng đã được triển khai liên thông tại TP.HCM. Đây là bước tiến quan trọng tạo sự dễ dàng cho doanh nghiệp và người tiêu dùng đến với việc thanh toán không dùng tiền mặt. Bên cạnh đó, các công ty trung gian thanh toán điện tử cũng phát triển mạnh và đa dạng trong năm nay, bắt đầu được người tiêu dùng biết đến.

Từ định hướng tập trung của Chính phủ đối với thương mại điện tử và thanh toán điện tử đến sự hoàn thiện về hạ tầng (Internet, Mobile, Payment) đều cho thấy thị trường ở Việt Nam đã qua giai đoạn chuẩn bị và đã sẵn sàng cho giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Đối với người tiêu dùng, với tình hình giá cả, chi phí leo thang và kẹt xe tại các đô thị lớn như hiện nay thì thương mại điện tử trở thành một giải pháp lý tưởng (mua hàng trên mạng giá rẻ hơn và giảm bớt đi lại, đỡ kẹt xe, tiết kiệm tiền xăng). Nút thắt của thị trường này chỉ còn là vấn đề "niềm tin", và ta có thể tin rằng các nhà bán lẻ lớn với thế mạnh về thương hiệu, chuỗi cửa hàng, hệ thống bảo đảm chất lượng, hệ thống giao nhận, hệ thống bảo hành… chính là những nhà tiên phong gỡ bỏ nút thắt này.

ebay

Chất xúc tác cho thị trường bán lẻ trực tuyến

Ngoài việc bảo đảm chất lượng và giá cả hàng hóa tốt nhất cho khách hàng, các nhà bán lẻ còn có nhiều "chất xúc tác" để khuyến khích thói quen mua hàng trên mạng của họ. TigerDirect, chuỗi bán lẻ hàng công nghệ của Mỹ, đã giới thiệu dịch vụ thanh toán trả sau BillMeLater. Khách hàng của công ty này khi chọn BillMeLater chỉ phải trả lời một số câu hỏi xác thực và sau đó hoàn tất giao dịch và nhận hóa đơn thanh toán tại nhà vào cuối tháng. Ngoài sự tiện lợi, TigerDirect thậm chí còn tặng khách hàng mới một khoản tiền 20 đô-la Mỹ khi sử dụng BillMeLater.Ở Việt Nam cũng có không ít doanh nghiệp bán hàng trả góp trực tuyến. Khách hàng có thể mua món hàng mình thích và thanh toán làm nhiều kỳ với lãi suất thấp. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn đưa ra những chương trình khuyến mãi kích cầu, đáp ứng đúng nhu cầu mua hàng giá rẻ và trả góp nhiều kỳ của khách hàng thu nhập trung bình.

Các nhà bán lẻ cũng không ngừng gia tăng các dịch vụ bán hàng chéo (cross-sale) để đa dạng hóa hàng hóa và dịch vụ, tạo ra một đầu mối mua sắm duy nhất đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng (One-stop Shop). Khách hàng khi mua điện thoại di động thì cũng có thể nạp tiền vào tài khoản trả trước (topup) hoặc thanh toán hóa đơn trả sau ngay trên trang web bán hàng, hoặc khi mua máy tính xách tay (laptop) trên mạng thì có thể mua phần mềm hoặc các tiện ích ngay tại cùng trang web đó.

Tóm lại, với điều kiện hạ tầng ở Việt Nam đã hoàn thiện, các nhà bán lẻ đang đứng trước cơ hội mở rộng kênh bán hàng trực tuyến và mang lại làn sóng mới cho thương mại điện tử Việt Nam. Với những lợi thế sẵn có từ thương hiệu, hệ thống chuỗi cửa hàng và hệ thống quy trình bán lẻ chuyên nghiệp, nhà bán lẻ có thể mở nút thắt "niềm tin" của khách hàng. Bên cạnh đó, nhà bán lẻ cũng có thể tận dụng lợi thế tiết kiệm chi phí của kênh trực tuyến để bảo đảm giá tốt nhất cho khách hàng và cung cấp nhiều dịch vụ kích cầu.

(*) Ông Nguyễn Hoàng Ly là Giám đốc điều hành VietUnion, chủ sở hữu ví điện tử Payoo.

- Nguyễn Hoàng Ly -

(Thanh Phương -

Theo TBKTSG )

Share:

Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012

Bùng nổ thời đại Dot-com của Ấn Độ

snapdealẤn Độ - nơi không thiếu những tài năng công nghệ nhưng lại có nền kinh tế Internet kém phát triển một cách đáng ngạc nhiên. Không những có tỷ lệ truy cập Internet thấp nhất trong nhóm các thị trường đang phát triển, mà thương mại trực tuyến còn gần như chưa phát triển tại Quốc Gia này.

Những phiên bản của Amazon .com, Groupon hay Expedia

Rất nhiều công ty Ấn Độ kinh doanh trên lĩnh vực Internet đang xâm nhập vào lĩnh vực cung cấp các dịch vụ đã nổi đình đám ở Mỹ và một số thị trường khác. Họ là những người muốn xây dựng được những phiên bản Amazon, Groupon hay Expedia của riêng mình. Mục tiêu chung là đáp ứng được nhu cầu mua sắm trực tuyến ngày càng tăng của người dân Ấn Độ

Những công ty Ấn Độ mới thành lập, ví dụ như trang bán sách trực tuyến Flipkart.com, nhà bán lẻ đồ điện tử LetsBuy.com và trang web giảm giá SnapDeal.com, đang phát triển rất nhanh và được hỗ trợ tài chính từ các nhà đầu tư mạo hiểm tên tuổi tại thung lũng Silicon như Sequoia Capital và Accel Partners.

Hiện tỷ lệ truy cập Internet tại quốc gia này đã có những dấu hiệu gia tăng. Theo số liệu mới nhất từ năm 2009, số người sử dụng Internet là 71 triệu người, chỉ chiếm 5% trong tổng dân số. Tuy nhiên, theo ước tính hiện tại thì con số này đã tăng lên khoảng 80-100 triệu người, và các nhà phân tích dự đoán con số này sẽ còn tăng cao hơn nữa khi mạng lưới băng thông rộng thế hệ thứ ba được đưa vào sử dụng.

Động lực từ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao

Theo các nhà phân tích, có lẽ điều quan trọng nhất là các nhà đầu tư và các công ty trong lĩnh vực Internet đang xóa bỏ quan niệm thông thường cho rằng, xây dựng một doanh nghiệp quy mô lớn ở Ấn Độ đòi hỏi phải tập trung vào "đáy kim tự tháp"- nấc thang kinh tế thấp nhất tạo nên thị trường đại chúng. Họ ngày càng tin rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,5% trong những năm gần đây đã giúp tạo ra một lượng khách hàng dồi dào, hỗ trợ cho thị trường Internet phát triển mạnh mẽ.

Kanwaljit Singh- giám đốc quản lý của công ty đầu tư Helion Venture Partners cho biết, thương mại điện tử không chỉ tăng trưởng ở những thành phố lớn như Delhi hay Mumbai, nó cũng khá phát triển ở những thành phố loại hai và loại ba, nơi có rất ít sự góp mặt của các nhà bán lẻ: "Nếu tôi sống trong một thành phố nhỏ và muốn mua một cuốn sách không phải trong top 100 thì sẽ không thể tìm thấy nó tại bất kỳ một cửa hàng sách nào. Nhưng Flipkart có thể thỏa mãn nhu cầu đó của tôi".

Flipkart được thành lập vào năm 2007 bởi hai kỹ sư phần mềm trẻ là Sachin Bansal và Binny Bansal (cùng họ Bansal nhưng không có mối quan hệ gần gũi nào). Cả hai bỏ việc tại Amazon.com Inc. (Chi nhánh Ấn Độ) và thành lập công ty trong một căn hộ ở Bangalore. Công ty hiên đã có catalog của 10 triệu đầu sách, đồng thời cũng bán điện thoại di động, phim và trò chơi.

Ông chủ Sachin Bansal, 29 tuổi, thổ lộ: "Chúng tôi muốn trở thành Amazon.com của Ấn Độ. Chúng tôi lý tưởng hóa Amazon ". Anh cho biết, công ty hy vọng doanh số 20 triệu đôla cuối tháng 3 năm nay sẽ tăng gấp 5 lần trong năm tới. Vào thời điểm hiện tại. công ty đặt mục tiêu tăng doanh số lên trên lợi nhuận.

Tuy nhiên, kinh doanh dựa vào Internet tại Ấn Độ là một công việc cực kỳ chật vật. Cả nước có rất ít người dùng thẻ tín dụng nên các công ty phải thực hiện giao dịch bằng tiền mặt nhiều hơn. Bên cạnh đó, mạng lưới đường xá kém phát triển ở những thành phố, thị trấn nhỏ cũng là một cản trở không nhỏ trong quá trình giao hàng. Flipkart đã "ngầm" ám chỉ điều này khi gửi một thông điệp trên trang web của công ty: "Chúng tôi khẳng định rằng chúng tôi đang nỗ lực vượt qua những khó khăn để có thể mang sản phẩm đến trao tận tay cho các khách hàng".

Thành công từ những mô hình đã nổi đình đám

Có rất ít thương hiệu lớn hoạt động nhờ Internet được thành lập tại Ấn Độ, hầu như các trang web này là những trang tin tức, tìm việc và mai mối; và những trang thương mại điện tử cũng ít hơn những trang web cung cấp dịch vụ đặt phòng du lịch. Nhiều nhà phân tích dự đoán đây sẽ là thời điểm Internet phát triển rất mau lẹ. Theo một nghiên cứu hồi năm ngoái, ngân hàng đầu tư Caris & Co. dự đoán đến năm 2015 Ấn Độ sẽ có từ 180-200 triệu người dùng Internet, hay tỷ lệ truy cập là 18%. Mua sắm trực tuyến ước tính sẽ tăng từ 1,4 tỷ đôla hồi năm ngoái lên 5 tỷ đôla trong năm 2012, dù đây vẫn chỉ là một miếng nhỏ trong thị trường bán lẻ 350 tỷ đôla của họ.

Dotcom-india

Exclusively.in được thành lập vào năm ngoái, có trụ sở ở cả New York và New Delhi. Trang web này có bán trực tuyến các sản phẩm thời trang Ấn Độ và trang trí nhà cửa cao cấp. Được mô phỏng theo Gilt Groupe, Exclusively.in cung cấp các sản phẩm giảm giá cực lớn cho công đồng người Ấn Độ ở Mỹ. Các mặt hàng rất đa dạng, từ trang phục sari đến nữ trang và vec kiểu Ấn, giá trung bình khoảng 225 đôla/ một sản phẩm.

Người đồng sáng lập Sunjay Guleria cho biết, ban đầu anh định chờ một vài năm nữa rồi mới tập trung vào người tiêu dùng Ấn Độ. Nhưng hiên anh đang gấp rút chạy đua để trong năm nay có thể cho ra mắt một trang web tập trung vào Ấn Độ.

Có ít nhất vài trang web mô phỏng theo Groupon Inc. của Mỹ (trang web mua hàng theo nhóm và giảm giá). Trong số đó phải kể đến SnapDeal.com ra mắt vào hồi năm ngoái. Trang web này do Kunal Bahl- cựu sinh viên trường Wharton sáng lập, chuyên cung cấp các sản phẩm và dịch vụ giảm giá tại 45 thành phố Ấn Độ, từ nước hoa cao cấp tới các dịch vụ chăm sóc sắc đẹp. Công ty được hưởng 30% tiền hoa hồng. Hiện ngày càng có nhiều khách hàng thuộc tầng lớp thượng lưu tham gia, và đây là một lực lượng hỗ trợ đắc lực cho quá trình tăng trưởng trong những năm tới.

- Lơ Nguyễn -

(Phương Trinh -

Theo VEF/ WSJ )

Share:

Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

Groupon học được gì từ Facebook?

groupon-collective-buying-powerCó thể nói rằng, chính Mark Zuckerberg đã dạy Andrew Mason bài học về kiếm tiền ở Trung Quốc.

Theo báo cáo tuần trước, người hùng " Mạng xã hội " Zuckerberg mới ký một thỏa thuận với Baidu (BIDU) để cùng bắt tay tạo ra mạng xã hội mới ở Trung Quốc. Đến tận lúc này Facebook mới vượt qua được bức Đại Tường Lửa của thị trường tiềm năng này.

Thỏa thuận trên sẽ mang lại lợi ích lớn cho cả đôi bên. Facebook có thể xâm nhập vào thị trường Internet lớn nhất thế giới trong tương lai, với tiềm năng tăng trưởng mạnh vào những năm tới. Còn Baidu thì được hợp tác với dịch vụ mạng xã hội thành công nhất hành tinh, nâng cao vị thế cạnh tranh của họ tại thị trường trong nước trong lĩnh vực vốn không thuộc thế mạnh của họ.

Tôi không thể chắc chắn những rủi ro mà thỏa thuận hợp tác này phải đối mặt từ sự giám sát của chính phủ (từ cả phía Trung Quốc và Mỹ), cũng như cuộc cạnh tranh khốc liệt ở Trung Quốc từ những dịch vụ đã được thiết lập trước đó. Nhưng tôi tin rằng đây là một động thái vô cùng khôn ngoan của hai ông lớn này.

Dưới đây là những bài học mà Andrew Mason - ông chủ của Groupon , nên học hỏi từ Mark Zuckerberg của Facebook.

1. Xác định điều quan trọng và không quan trọng

Zuckerberg nhận thức được rằng thị trường Trung Quốc là vô cùng quan trọng. Trong bộ phim tài liệu về Facebook được đài CNBC phát sóng hồi năm ngoái, Zuckerberg đã nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường 1,6 tỷ dân này. Quảng cáo Superbowl của Andrew Mason dường như thể hiện sự thương cảm với tình cảnh khốn khổ của người Tây Tạng và mang hơi hướng chỉ trích chính phủ. Không những thế, nó cũng không kết nối được với đối tượng khán giả Mỹ. Có thể Mason nghĩ quảng cáo Superbowl là quan trọng, nhưng nói gì thì nói, anh ta cũng đã không thể nhận thức được tầm quan trọng của quảng cáo và không cân nhắc kỹ càng trước khi sử dụng công cụ này.

2. Không nên ủy thác những công việc quan trọng

Với vai trò CEO, để phân loại những công việc quan trọng và không quan trọng, trước hết bạn có thể xem xét những công việc đã được đặt trên bàn làm việc của mình. Sau đó bạn phải chắc chắn rằng mình đang xử lý những công việc quan trọng nhất. Điều này có nghĩa là bạn không được ủy thác cho những người khác. Ý thức rõ tầm quan trọng của thị trường Trung Quốc đối với sự phát triển của Facebook, Zuckerberg đã đích thân bay tới Trung Quốc hồi tháng 12 năm ngoái để gặp gỡ các CEO của Baidu, Sina (SINA), và China Mobile (CHL).

Zuckerberg đã không cử Sheryl Sandberg hay một phó chủ tịch nào đó mà tự mình tới đây và xúc tiến thỏa thuận. Ngược lại, Andrew Mason đã giao phó trách nhiệm quảng cáo cho cấp dưới và công ty quảng cáo CP&B. Sau đó, khi xuất hiện chỉ trích về quảng cáo của họ thì Mason lập tức biện hộ. Vài tuần sau đó thì CP&B cũng bị sa thải với lý do Mason đã quá tin tưởng ở họ. Tất nhiên, anh ta đã chọn họ làm vật hy sinh, nhưng rõ ràng rằng anh ta đã không đủ sâu xát tình hình thực tế khi công việc được tiến hành.

3. Đừng tự huyễn hoặc về khả năng hài hước hạn chế của mình

Andrew Mason là khách mời của chương trình Charlie Rose vào tháng 12 năm ngoái. Dù có những câu tâng bốc của người dẫn chương trình về tài năng trẻ công nghệ cao mới nổi, nhưng buổi phỏng vấn đáng chú ý hơn ở những câu đùa dai dẳng của Mason. Khi được hỏi: "Tương lai của Groupon là gì?", Mason nghệt mặt: "Chúng tôi sẽ kinh doanh ô tô lái tự động...". Sau đó anh nói tiếp: "Và tôi nghĩ khi người ta gọi chúng tôi là công ty phát triển nhanh nhất chưa từng có thì tôi cho rằng chúng tôi là N-Sync của các trang web, giống như việc chúng tôi đã có những nốt nhạc, nhưng chúng tôi không phải Beatles..." Điều này thật là ngớ ngẩn!

Andrew-Mason

Andrew Mason - ông chủ của Groupon.

Những người bảo vệ anh ta có thể nói rằng, "Tếu táo trên truyền hình thì có hại gì đâu chứ". Nhưng theo tôi thì những câu nói đùa này cũng chẳng khác gì so với quảng cáo Superbowl với giọng điệu đầy châm biếm. Chúng ta có thể tranh luận về tính hài hước của nó, nhưng có một điều không thể chối cãi được là nó không hề ăn nhập gì với khán giả. Nhưng với Mark Zuckerberg thì lại khác. Anh luôn phân biệt rạch ròi: Nếu muốn hài hước, hãy đến Second City (một công ty hoạt động trong lĩnh vực hài) để tìm một công việc, còn nếu muốn điều hành công ty thì hãy chỉ tập trung điều hành công ty mà thôi.

4. Thể hiện một chút tôn trọng đối với những người khác

Khi Zuckerberg đến Trung Quốc vào tháng 12 năm ngoái, anh đã tạo được ấn tượng truyền thông rất tốt ở nới đây. Anh tán dương người Trung Quốc. Anh chia sẻ cách học tiếng Trung Quốc phổ thông một tiếng mỗi ngày. Anh gặp gỡ các CEO của các công ty Trung Quốc kinh doanh trên Internet và hỏi han về tình hình phát triển của Quốc Gia họ...Người Trung Quốc cảm nhận được thiện chí của anh.

Nhưng nếu Mason đến Trung Quốc thì sẽ chẳng tạo được làn sóng dư luận nào. Anh ta ủy nhiệm cho cấp dưới làm việc với người khổng lồ Tencent của Trung Quốc (một đối tác lớn của Groupon). Nhưng những ngày đầu tiên của mối quan hệ hợp tác này không mấy suôn sẻ, không phải chỉ vì quảng cáo Superbowl về người Tây Tạng mà còn vì Groupon đã "dạy khôn" Tencent về cách kinh doanh tại quốc gia này. Mà trước nay, Trung Quốc vẫn được coi là "hố lầy" của những giám đốc điều hành người Mỹ cứ tưởng rằng phương thức kinh doanh của họ sẽ ngay lập tức có hiệu quả tại thị trường Trung Quốc.

Mason và Groupon vẫn chưa "tới số" ở Trung Quốc vì họ có đối tác tuyệt vời là Tencent để giải quyết những mớ hỗn độn mà họ gây ra. Tuy nhiên, họ đang phải đối mặt với cuộc cạnh tranh khốc liệt với hàng chục công ty phát triển trong nước, không những thế Groupon lại không được biết đến nhiều tại thị trường tiềm năng này. Trên thực tế, cổng URL www.groupon.cn là của một công ty cung cấp dịch vụ giảm giá hoàn toàn khác đã đăng ký trước khi Groupon kịp nghĩ về nó.

Mark Zuckerberg không muốn trở thành một Conan O'Brien tiếp theo (Conan O'Brien là danh hài, nhà văn, nhà sản xuất, diễn viên và là người dẫn chương trình nói chuyện đêm khuya "Conan"). Anh chỉ muốn xây dựng một công ty hùng mạnh và sẽ làm tất cả để hiện thực hóa ước mơ của mình.

- Lơ Nguyễn -

(Tuấn Anh -

Theo Vef/ Forbes )

Share:

Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012

Có quá muộn cho Stephen Elop?

Stephen_ElopChiến lược mới của Stephen Elop chưa chắc đã giúp Nokia lấy lại vị thế tập đoàn điện thoại di động hàng đầu thế giới, nhưng ít nhất những thay đổi tích cực đang diễn ra.

Đầu tháng 2.2011, Stephen Elop, người đảm nhiệm vị trí Tổng Giám đốc Nokia (Phần Lan) vào tháng 9.2010, đã gửi đi một thông điệp đến toàn thể nhân viên trong Công ty, nói rõ tình thế khó khăn của Nokia và giải thích tại sao nhân viên phải chấp nhận nhảy vào một tương lai vô chừng. Sau đó vài ngày (11.2.2011), ông đã bồi thêm một cú khi công bố chọn hệ điều hành di động của Microsoft cho dòng điện thoại thông minh, thay hệ điều hành do Hãng phát triển là Symbian và Meego. Đồng thời, ông cũng cho biết sẽ tập trung vào việc phát triển các dòng điện thoại cấp thấp tại các thị trường mới nổi nhằm đạt tới con số "một tỉ khách hàng kế tiếp".

Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng, Nokia đã quá chậm chân trong cuộc đua di động và nỗ lực của Elop rất khó thành công. Nokia từng lội ngược dòng thành công dưới thời của Jorma Ollila vào thập niên 1990, nhưng lịch sử sẽ khó có thể lặp lại. Đó là do khả năng lãnh đạo kém, sự tự mãn, ngủ quên trong chiến thắng, cùng với văn hóa quan liêu. Tất cả đã khiến Nokia bỏ lỡ cuộc cách mạng điện thoại thông minh. Hiện tại, Hãng đã bị mất thị phần vào tay iPhone của Apple (Mỹ) và bị bỏ lại đằng sau bởi các điện thoại sử dụng hệ điều hành di động Android của Google (Mỹ). Trong khi đó, Nokia cũng bị ép sân tại các thị trường mới nổi khi các đối thủ tại đây tạo ra các điện thoại giá rẻ hơn với tốc độ nhanh chóng.

Trước những khó khăn và thách thức này, ông Pekka Ylä-Anttila, Giám đốc Nghiên cứu tại ELTA, một tổ chức kinh tế có trụ sở tại Helsinki (Phần Lan), cho rằng, cơ may thành công của Elop "chỉ nhỉnh hơn 50%".

Dù cơ may thành công của Elop như thế nào và dù Nokia đang bước vào một tương lai vô chừng, nhưng ít nhất một điều rất rõ ràng là Nokia đang có một mục tiêu rất cụ thể. Tuyên bố của Elop về sự thay đổi triệt để trong chiến lược của Nokia, đã được không ít nhân viên đón nhận với một thái độ tích cực. Một điều nữa là Elop đã thấy được những hạn chế về quản lý, nguyên nhân chính làm Nokia chậm trễ trong cuộc đua công nghệ. Quan trọng hơn, ông đang nỗ lực thay đổi điều đó.

Những thay đổi trong lòng Nokia

Elop đã tiến hành những thay đổi lớn, theo hướng chú trọng tính giải trình trách nhiệm ở các bộ phận, phân quyền cho nhóm làm việc, tránh sự lẫn lộn, chồng chéo về nhiệm vụ được giao, đơn giản hóa quá trình ra quyết định, tạo ra văn hóa doanh nghiệp dựa trên kết quả làm việc.

Mary McDowell, người đứng đầu bộ phận điện thoại di động tại Nokia, nhận định: "Nokia bị kiềm hãm, bế tắc bởi tính quan liêu của mình". Có quá nhiều ban, ủy ban tham gia ra quyết định. Nhưng bà cho biết, hiện tại, hầu hết những ban này đều đã được xóa bỏ. "Có quá nhiều thứ phải thông qua trụ sở chính trước khi đi ra ngoài", Elop nói. "Bạn trực tiếp điều hành công việc. Bạn có thể quyết định vấn đề nhỏ nhặt tại đó. Thế nhưng bạn vẫn phải đợi tiếng nói quyết định của một người cách bạn 10 múi giờ và người đó lại phải thông qua 3 ông chủ của họ", ông dẫn chứng.

Các nhà quản lý cho rằng việc được phân quyền và tinh thần có trách nhiệm giải trình đã làm thay đổi không khí cuộc họp. Steven Robson, Phó Chủ tịch thuộc nhóm kiểm soát và tài chính của Nokia, nhận định: "Bây giờ, lúc nào cũng có người trong phòng họp quay sang hỏi "Ai chịu trách nhiệm giải trình về vấn đề này?". Trước kia, mọi người cùng thảo luận vấn đề và sau đó được chuyển lên cấp trên để họ quyết định (và cuối cùng không biết trách nhiệm thuộc về ai)".

Việc đưa quá trình ra quyết định xuống thẳng các nhóm làm việc tại từng vùng rất quan trọng đối với bà McDowell khi bà cố gắng rút ngắn thời gian tung ra sản phẩm tại các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ. Đây cũng là những thị trường chiến lược trong kế hoạch mới của Elop. Có thể thấy, năm 2010, các thị trường bên ngoài Bắc Mỹ và châu Âu đã chiếm tới 2/3 doanh số bán thiết bị và dịch vụ của Nokia.

thi-phan-nokia

Thị phần điện thoại thông minh (ĐTTM) của Nokia sụt giảm qua từng năm

Có thể trông đợi vào Microsoft?

Đối với thương vụ Microsoft, Elop cho rằng đây là một bước đi chiến lược. Các nhà khai thác dịch vụ viễn thông như Vodafone (Đức) hay Orange (Pháp) sẽ chào đón hệ điều hành Windows làm một đối trọng thứ 3 với IOS của Apple và Android của Google. Nếu dựa vào Android Nokia sẽ rất khó tạo sự khác biệt trước vô số đối thủ khác (Android đang ngày càng được nhiều công ty sử dụng làm hệ điều hành cho điện thoại của họ).

Tuy nhiên, trong ngắn hạn, Elop vẫn chưa thể giải đáp thắc mắc "làm thế nào thương vụ hợp tác với Microsoft sẽ mang lại hiệu quả Nokia?"

Việc lựa chọn Microsoft, vốn nổi tiếng về tính sở hữu (bảo thủ) đối với hệ điều hành của mình, là một vố đau đối với những người mong đợi một phần mềm mã nguồn mở. Một người đã rời khỏi Nokia không lâu sau khi Elop công bố hợp tác với Microsoft nhận định: "Đó là một cú sốc quá lớn. Có nhiều người phản đối và một số người thì rất tức giận".

Trong lĩnh vực điện thoại thông minh, việc mất 2 năm để chuyển giao từ một thiết bị dựa trên hệ điều hành Symbian sang thiết bị sử dụng hệ điều hành Windows Mobile cho thấy một tương lai không chắc chắn cho Nokia. Công ty phải xoa dịu sự thất vọng của những người viết phần mềm ứng dụng, khuyến khích họ để có thể giữ chân họ nhằm hỗ trợ việc tung ra thị trường 150 triệu chiếc điện thoại Symbian (dự kiến) trong 2 năm tới và tạo ra một thiết bị dựa trên hệ điều hành Windows có sức công phá trước khi năm 2011 kết thúc (nếu có thể).

"Bắt tay vào sản xuất điện thoại Windows còn dễ dàng hơn là tiếp tục vận hành Symbian", bà Jo Harlow, phụ trách Symbian và hiện là trưởng bộ phận thiết bị thông minh mới được thành lập, nhận xét.

nokia-microsoft

Ngoài ra, các đối thủ sẽ không đứng yên để chờ Nokia bắt kịp. Elop và các nhà điều hành dưới trướng của ông phải nhanh chóng tạo ra một sự chuyển mình, có thể đem đến cho Nokia thị phần và lợi nhuận bền vững mà không phung phí văn hóa và tính sáng tạo của mình vào những nơi vô bổ.

Một khi thương vụ với Microsoft hoàn tất, dự kiến vào cuối tháng này, Nokia sẽ phải giải quyết những mối lo trên một cách rõ ràng, gia tăng thêm nhân lực cho các nhóm triển khai điện thoại Windows và thúc đẩy đầu tư vào các thị trường mới nổi. Tái lập một nền tảng bền vững cho Nokia trên thị trường là thách thức lớn của Elop. Ông cũng hiểu sự minh bạch, đơn giản hóa quá trình ra quyết định, xây dựng văn hóa làm việc và nâng cao trách nhiệm giải trình chỉ đơn thuần là những công cụ và mọi việc mới chỉ bắt đầu.

- Ngô Ngọc Châu -

(Thanh Phương -

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư/FT)

Share:

Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

Mô hình Groupon có bền vững?

grouponBiên lợi nhuận liên tục giảm đã khiến nhiều người đặt dấu hỏi về tính bền vững của mô hình kinh doanh Groupon .

Trong chưa đầy 3 năm kể từ khi được thành lập năm 2008, Groupon đã định vị mình như một ông vua trên thị trường cung cấp các vụ giao dịch giảm giá trực tuyến. Thị trường này được hãng nghiên cứu Mỹ BIA/Kelsey dự báo sẽ tạo ra 3,9 tỉ USD doanh số bán chỉ riêng tại Mỹ trong năm 2015, từ mức 873 triệu USD của năm 2010. Vì thế, khi có thông tin Groupon chuẩn bị phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO), giới đầu tư càng lên cơn sốt.

Tuy nhiên, khi chính thức nộp hồ sơ xin phát hành IPO lên Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) vào đầu tháng 6.2011, Hãng cũng đối mặt với hàng loạt mối nghi ngờ về tính bền vững trong mô hình kinh doanh.

Mặt sau của những con số

Phải thừa nhận Groupon là công ty có tốc độ tăng trưởng nhanh không thể tin nổi. Số lượng đăng ký đã tăng lên 83,1 triệu người trong quý I/2011 từ mức 3,4 triệu cách đây một năm và số giao dịch của Groupon đã tăng lên đến 28,1 triệu từ mức 1,8 triệu. Lãi gộp của Công ty (phần còn lại sau khi đã ăn chia với các nhà kinh doanh hàng hóa/dịch vụ) đã tăng lên đến 270 triệu USD trong quý I từ mức 20 triệu USD cùng kỳ năm ngoái. Groupon hiện cung cấp phiếu giảm giá tại hơn 500 thị trường trên thế giới, so với 260 của LivingSocial.com (Mỹ), đối thủ lớn nhất của Groupon.

Đó là lý do cho việc nhà đầu tư sẵn sàng đặt cược vào sự bành trướng của Groupon trong tương lai (Tháng 3 vừa qua, Groupon đã được định giá lên tới 25 tỉ USD). Tuy nhiên, nếu nhìn vào mặt sau của những con số trên thì đó không phải là một bức tranh đẹp.

Theo Yipit Data, công ty chuyên theo dõi các website cung cấp các vụ giao dịch giảm giá trực tuyến, xét trên số tiền mà mỗi khách hàng và người đăng ký đem lại cho Groupon, doanh thu thực ra đang giảm xuống. Doanh thu mỗi người đăng ký tính đến ngày 30.6.2009 là vào khoảng 21,69 USD/người. Nhưng tính đến ngày 31.3.2011, con số này đã giảm đến 64,2%, còn chỉ hơn 7,76 USD/người. Doanh thu mỗi khách hàng mang lại cho Groupon cũng giảm 46,8% trong cùng thời gian trên. Và số vụ giao dịch Groupon thành công trên mỗi khách hàng đã giảm 34% và giá trị giao dịch trên mỗi khách hàng cũng giảm 19%.

Đó là lý do nhiều ý kiến cho rằng, mô hình kinh doanh của Groupon khó có thể thành công trong dài hạn. Vì đây là mô hình ai cũng có thể dễ dàng sao chép. Có thể thấy, hiện tại, đã có đến 482 bản sao của Groupon.

Việc Groupon hoạt động trong lĩnh vực mà ai cũng có thể vào được có nghĩa là biên lợi nhuận của Groupon sẽ sụt giảm mạnh khi ngày càng nhiều đối thủ nhảy vào. Trên thực tế, các con số trên của Groupon đã cho thấy điều đó đang diễn ra.

Hiện tại, Groupon ăn chia với các nhà kinh doanh theo tỉ lệ 50-50 trên mỗi phiếu mà Hãng bán ra. Nhưng theo trang web BusinessInsider, tại nhiều thị trường, Groupon ăn chia theo tỉ lệ 80-20, tức Hãng chỉ nhận 20% doanh số trên mỗi phiếu bán ra. Đây có phải là cách để Groupon giành thị phần ở một số thị trường mà Hãng cho là trọng yếu, hay đó chỉ là một xu hướng Nếu đó là một xu hướng thì rõ ràng biên lợi nhuận của Groupon đang lâm nguy. Như vậy, liệu nhà đầu tư có còn kỳ vọng rằng họ sẽ nhận được mức cổ tức cao từ một công ty đang đi xuống?

Gánh nặng chi phí marketing

Để bành trướng, Groupon đã tuyển lao động lên mức 7.107 người tính đến cuối tháng 3.2011, từ mức 37 người vào tháng 6.2009. Công ty cho biết, doanh thu trên mỗi nhân viên kinh doanh trong quý I là 170.000 USD/tháng, tăng từ mức 87.000 USD cách đây 2 năm. Nhờ đó, doanh số bán của Groupon đã tăng gấp hơn 14 lần, đạt 644,7 triệu USD trong quý vừa qua. Tuy nhiên, theo ông Pat Becker Jr., nhà quản lý danh mục đầu tư tại Becker Capital Management (công ty này quản lý 2,5 tỉ USD tài sản của khách hàng), chi phí marketing lại tăng trưởng nhanh hơn cả doanh số bán. Điều đó có nghĩa là Groupon có thể không kiếm đủ tiền để bù vào chi phí.

Quả thực, chi phí marketing là khoản chi lớn nhất của Hãng khi đã lên tới 208,2 triệu USD trong quý I/2011. Công ty cũng đã bỏ ra 179,9 triệu USD để gia tăng lượng người đăng ký nhằm cạnh tranh với đối thủ LivingSocial.com. Groupon cho rằng, mức chi phí đó là xứng đáng. Trong hồ sơ gửi lên SEC, Công ty nhấn mạnh việc chi 18 triệu USD đã giúp gia tăng thêm 3,7 triệu người đăng ký trong quý II năm 2010. Đến quý I năm nay, những cá nhân đó đã tạo ra 145,3 triệu USD doanh thu và 61,7 triệu USD lãi gộp.

Tuy nhiên, mức chi quá lớn đã khiến Công ty bị lỗ ròng 117,1 triệu USD trong quý I/2011. Nếu tính từ năm 2008, con số này lên tới 540,2 triệu USD.

Về vấn đề này, trong hồ sơ nộp lên SEC, Groupon giải thích, một khi đã giành được thị trường thì chi phí marketing sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, theo A.B. Mendez, chuyên gia phân tích thuộc GreenCrest Capital Management LLC ở New York, với mức chi cho marketing quá lớn thì sẽ rất lâu Groupon mới có thể đạt được mức sinh lời. "Cũng chưa rõ là biên lợi nhuận dài hạn của họ là như thế nào hoặc khi nào thì họ mới có thể đạt được mức sinh lời ổn định", ông nói.

Biên lợi nhuận sa sút, mô hình kinh doanh thì dễ dàng kết nạp thêm người chơi. Vậy để tồn tại và phát triển, lợi thế cạnh tranh lâu dài của Groupon là gì? Đó là câu hỏi quan trọng nhất mà nhà đầu tư đặt ra cho Groupon. Nói cho cùng, khi đầu tư vào một công ty, cái họ mong muốn là lợi nhuận mà khoản đầu tư mang lại. Vì thế, việc trút vốn vào một công ty có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng làm ăn không có lãi thì dường như không phải là việc làm khôn ngoan.

- Ngô Ngọc Châu -

(Phương Trinh -

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư/NYT, Bloomberg, BusinessInsider)

Share:

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

Bất động sản và chuyện làm thương hiệu

Nguyên nhân chính của nhiều vấn đề về phát triển bất động sản hiện nay bắt nguồn từ chênh lệch giữa kỳ vọng của người mua và hành vi của người bán. Về cơ bản, cảm nhận của hai phía hoàn toàn khác nhau, dẫn đến một vấn đề truyền thống về hình ảnh thương hiệu. So với bất cứ loại hình kinh doanh nào khác, bất động sản là loại hàng hoá đòi hỏi mối quan hệ cảm tính mật thiết giữa người mua và người bán.

Những nhà đầu tư bất động sản có thể nâng cao thành công nếu họ biết quản lý hệ thống nhận diện thương hiệu như những yếu tố kinh doanh khác.

Những doanh nghiệp tham vọng xây dựng một thương hiệu thành công đều phải bắt đầu từ việc nghiên cứu. Khi bắt tay xây dựng một hình ảnh thương hiệu, chúng tôi phải bắt đầu từ chính thương hiệu ấy. Nghiên cứu không chỉ để tìm hiểu những kế hoạch, mục tiêu công ty đặt ra, mà còn phải nắm được những khát khao, tham vọng của thương hiệu ấy. Chúng tôi thường tiến hành phỏng vấn chuyên sâu và một số phương pháp khác như thảo luận nhóm để tìm hiểu về khách hàng.

Một nghiên cứu được tiến hành đúng cách sẽ cho biết suy nghĩ của khách hàng về những sản phẩm đang có, và quan trọng hơn, thứ mà khách hàng muốn có. Sự chênh lệch giữa hai yếu tố này sẽ đặt ra cả cơ hội và thách thức. Ví dụ như thị trường đang có nhu cầu cao đối với những căn hộ giá tầm trung, chất lượng hợp lý; người tiêu dùng có cảm nhận không tích cực về diện tích của những căn hộ hạng sang hay kỳ vọng của người mua về chất lượng các dự án cao cấp.

Tuy nhiên, tìm ra những chênh lệch không có nghĩa là thương hiệu phải làm theo tất cả những gì mà người tiêu dùng muốn.

Khi xây dựng bản sắc nhận diện thương hiệu cho CAO, nhãn hiệu trang sức cao cấp của PNJ, chúng tôi đã tiến hành thảo luận nhóm. Nhiều người cho rằng cái tên này nghe có phần "cứng". Tuy nhiên, CAO là một cái tên ngắn gọn mà giàu ý nghĩa. Nhận thức được vấn đề trong cảm nhận của khách hàng, chúng tôi đã khéo léo thiết kế một mẫu logo mềm mại, tinh tế và không hề "cứng" một chút nào.

Bước tiếp theo trong xây dựng thương hiệu là sử dụng kết quả nghiên cứu nhằm quyết định nét khác biệt độc đáo nhất của thương hiệu để truyền thông tới khách hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, nhấn mạnh những nét khác biệt có thể tối đa hoá tính hiệu quả của truyền thông.

Những thương hiệu nổi tiếng cũng có tính cách như con người. Các phương tiện truyền thông để gây ấn tượng cho khách hàng từ lúc ban đầu cho đến khi giao nhà đều phải nhấn mạnh một hình mẫu thương hiệu phù hợp với mong muốn của chủ đầu tư và kỳ vọng của người mua. Sau đó, chủ đầu tư phải tiếp tục lưu giữ hình ảnh này để mang lại cảm giác tự hào cho những cư dân sống ở đây, đồng thời duy trì giá trị của chính bất động sản ấy.

Xây dựng thương hiệu không đơn thuần là thiết kế hình ảnh đẹp mắt và nhất quán, mà hình ảnh ấy phải phù hợp với chính thương hiệu. Hãy thử so sánh vẻ trẻ trung, vui nhộn trong mẫu logo chữ V của VTV6, kênh truyền hình dành cho giới trẻ Việt Nam với hình ảnh mặt trời đang lên đầy sức sống của Ngân hàng Đông Á. Chúng giống như những câu chuyện về chính thương hiệu ấy.

Tuy nhiên, câu chuyện ấy phải đúng với những gì mà thương hiệu có. Chủ đầu tư tìm cách phóng đại một dự án hạng trung thành những căn hộ hạng sang sẽ chẳng thể nào chiếm được lòng tin và xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.

Bên cạnh đó, một trong những bài học lớn nhất mà các chủ đầu tư có thể học hỏi chính là cơ cấu quan hệ thương hiệu. Đa phần các chủ đầu tư không xây dựng được hình ảnh cho các dự án bất động sản, từ đó không thể nâng cao hình ảnh thương hiệu mẹ. Rất nhiều khu nhà mới ở Hà Nội được đặt tên là CT, A hoặc C và kèm theo một con số. Những cái tên như thế chẳng gợi nên bất cứ hình ảnh hay mối liên hệ nào với thương hiệu mẹ cả.

Indochina Land là một ngoại lệ. Sự hiện diện thường xuyên của thương hiệu này không chỉ giúp họ chiếm lĩnh lòng tin của người mua mà còn tạo dựng được một hình ảnh thương hiệu mạnh. Các khu tổ hợp đa năng thường được đặt tên là INDOCHINA + tên gọi. Còn với những dự án có tên riêng như khu nghỉ dưỡng hay sân golf, khẩu hiệu của họ luôn là: "Một công trình chất lượng của INDOCHINA LAND"

Một ví dụ minh hoạ việc sử dụng thiếu hiệu quả tên thương hiệu mẹ cho các dự án là VIMECO. Họ có rất nhiều khu nhà mang tên VIMECO, đồng thời họ lại dùng cái tên này cho những lĩnh vực không liên quan đến bất động sản như Công ty Cổ phần VIMECO Cơ khí và Thương mại, Trường mầm non VIMECO. Rõ ràng, cách làm này không thể gây dựng lòng tin với người mua.

Còn nhiều điều khác mà các chủ đầu tư có thể học hỏi từ những người làm thương hiệu, nhưng những điều vừa nói ở trên sẽ giúp các chủ đầu tư xây dựng một nền tảng vững chắc cần thiết cho thương hiệu của mình.

- Richard Moore -

(Phương Trinh -

Theo Branddance )

Share: